Lễ Húy Kỵ lần Thứ 29 Cố Hòa Thượng Thượng Đức Hạ Quang hiệu Bạch Y
TIỂU SỬ CỐ HÒA THƯỢNG THƯỢNG ĐỨC HẠ QUANG HIỆU BẠCH Y
Hòa thượng thượng Đức hạ Quang, thế danh là Nguyễn Sương, sinh năm 1903, nguyên quán tại thôn Kim Thạch, xã Nghĩa Hà, huyện Tư Nghĩa, Thành phố Quãng Ngãi. Phụ thân Ngài là cụ Nguyễn Tương, thân mẫu là cụ bà Phan Thị Cam. Từ thuở nhỏ Ngài là người con hiếu hạnh, biết kính trên nhường dưới, hòa đồng với mọi người nên thường được tất cả mọi người yêu mến.
Sau khi làm tròn bổn phận với gia đình, Ngài nhận thấy cõi đời là mộng ảo, sanh tử luân hồi, sanh già bệnh tử, căn duyên đã đến nên Ngài ra đi tầm sư học đạo. Ngài hành cước vân du khắp chốn. Ngài đi lạc qua vùng đất Campuchia, đến được một ngôi chùa, Ngài xin tá túc tại đó. Chủ ngôi chùa là ông Lục Cả. Ông nói: “Ông cứ ở lại đây tu với Lục đi”. Ngài ở được một thời gian thì xin dời bước trở về Việt Nam. Ngài quảy đãi đi khắp cả chân trời góc biển cũng chưa tìm được vị Minh sư cần tìm.
Ngài đi lên vùng Năm non Bảy núi Thất sơn - Tà Lơn được 1 năm mà vẫn chưa gặp được. Ngài đến Vũng Tàu cũng không tìm được Minh sư. Lúc đó Ngài cứ đi lang thang, non núi nào Ngài cũng đi hết. Cơ duyên đã đến, Ngài đi lên Núi Dinh thuộc tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, Ngài gặp được Minh sư mà bấy lâu nay cất công tìm kiếm. Ngài đến quỳ lạy Hòa thượng ba lạy. Nay con gặp được Minh sư, xin Hòa thượng cho con xin xuất gia tu học. Hòa thượng trả lời: “Thôi ông đi xuống tắm rửa, ăn uống đi, sáng mai lên đây tôi nói chuyện với ông”. Sáng hôm sau với tâm trạng háo hức, Ngài lên thật sớm quỳ đợi Hòa thượng. Hòa thượng ra ngồi xuống ghế, nói: “Nay Mẹ ban sắc lệnh cho ông hạ sơn về Lâm Đồng - Di Linh mà hành đạo, tu không thành thì đừng về gặp Mẫu Trầu”. Lúc đó Hòa thượng đã ban cho Ngài một cây gậy với một bầu linh dược và cho ông mấy đồng đi xe. Hòa thượng đó chính là Viện chủ Tổ Đình Linh Sơn Thích Thiện Phước. Hòa thượng đặt pháp danh cho Ngài là Đức Quang, pháp hiệu là Bạch Y. Kể từ đó một Y một Bát du phương hành đạo.
Đến vùng đất Lâm Đồng - Di Linh, gặp được ngôi chùa Thái Sơn, Ngài xin cho tá túc tại gốc ổi trước sân chùa. Ngày thì chữa bệnh, tối đến Thiền định tu hành. Dần dần dân chúng ở đó ủng hộ cho Ngài thành lập nên ngôi Tịnh xá Quan Âm. Ngài hướng dẫn Phật tử ăn chay niệm Phật tu hành đó là vào năm 1963.
Chưa dừng chân ở đó, Ngài quảy đãi du hành đến Đức Trọng – Liên Khương, ở tạm tại gốc da. Ngày thì lại chữa bịnh đêm thì nhập định tu hành. Dân chúng nơi đó theo Ngài rất đông và Ngài xây dựng lên ngôi ngôi Già lam đó là Tịnh xá Phi Lai. Ngài cũng hướng dẫn bổn đạo ăn chay niệm Phật tu hành đó là vào năm 1967.
Cuộc đời tu hành là thế, Ngài đi du phương khắp nơi, Ngài mang Bát đi về quê hương Quảng Ngãi thăm Phụ thân, hướng dẫn bà con ăn chay niệm Phật tu hành. Ngài thành lập ngôi Tam bảo là Chùa Thiên Thai năm 1972. Tiếp tục du phương hành đạo, Ngài ghé Bình Định - Bồng Sơn, thành lập ngôi Già lam Tịnh xá Bồng Sơn năm 1973. Đến vùng biển Phan Rang – Ninh Chữ, dân chúng ở đó sống bằng nghề chài lưới, bắt tôm cá, không biết ăn chay, niệm Phật là gì. Ngài đã tùy duyên, lấy tâm từ bi chữa bịnh, hướng dẫn bà con ăn chay niệm Phật tu tập. Ở đây Ngài lập Đạo tràng Tịnh thất Sơn Ngọc Hải năm 1974. Đến năm 1975, Ngài quay về Tịnh xá Phi Lai.
Mặc dù đang giữa thời chiến tranh, cuộc sống nhân dân lầm than cơ cực. Vốn là một du Tăng đi góc biển chân trời, hành đạo không biết mỏi mệt nhưng vì lòng hiếu thảo vì Thầy Mẹ đã ban truyền sắc lịnh và cũng vì lòng từ tâm Ngài đã kêu gọi đồng bào khai hoang trồng lúa bắp khoai để giúp đỡ dân nghèo ở vùng kinh tế mới tại Đại Ninh – Lâm Đồng. Đến năm 1977, Ngài lại ra đi về Định Quán dựng lên Tịnh xá Bửu Sơn. Hiện giờ do Hòa thượng thượng Minh hạ Dũng làm Trụ trì và đã xây cất ngôi Tịnh xá ngày càng hùng vĩ, khang trang hơn.
Quay trở về Long Khánh lập Tịnh thất Thanh Liên Hoa. Một lần nữa Ngài muốn ở gần Thầy Mẹ nên tuy tuổi già sức yếu Ngài quay về nơi hẻo lánh thuộc xã Hội Bài (nay là xã Tân Hòa) thuộc tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu vào năm 1982. Từ miếng đất khô cằn sỏi đá Ngài cùng với môn đồ đệ tử lao nhọc không quản nắng mưa, sương gió, tạo nên mảnh vướn tươi tốt. Ngài trồng mãng cầu, dừa, khoai, mì, sống cuộc sống giản dị. Mãng cầu có trái Ngài luôn hái dâng lên Mẹ trước thể hiện lòng hiếu kính. Ở được một thời gian, Nhà nước trưng dụng nơi đó làm trường bắn cho bộ đội quốc phòng. Vì sự nghiệp phụng sự dân tộc Ngài đã không lo nghĩ nhiều mà hiến đất cho bộ đội quốc phòng vào năm 1986.
Với kiếp sống du phương, chân tu, một lần nữa Ngài phải rời bỏ nơi đang cư trú để ra đi. Nhưng hửu duyên với vùng đất tại xã Tân Hòa, Bà Rịa-Vũng Tàu, Ngài đã thành lập Tịnh thất Bạch Y từ vách lá mái tranh, dần dần được khang trang lên Tịnh xá Bạch Y. Và đây chính là điểm dừng chân của Hòa thượng Ân sư sau một thời gian dài du phương hoằng dương Chánh pháp. Ngài đã làm tròn sứ mạng của Thầy Mẹ truyền trao. Ngài đã lo tròn nợ Nước tình nhà. Với phương châm “Một lòng phụng sự Đạo Pháp là cúng dường chư Phật, trang nghiêm thế gian là trang nghiêm Tịnh độ cõi Phật”, trong mấy mươi năm miệt mài trong sự nghiệp Phật sự của bậc chân tu.
Đến năm 1996, Hòa thượng mãn duyên hóa độ tại cõi Ta bà, thu thần tịch diệt để trở về Niết bàn tịch mịch chân như. Hòa thượng để lại sau lưng cho môn nhơn pháp quyến và Phật tử kính tiếc Ân sư một chuỗi dài…
.