ĐỨC TÔN SƯ HÒA THƯỢNG thượng THIỆN hạ PHƯỚC Húy NHỰT Ý (1924 – 1986).
ĐỨC TÔN SƯ HÒA THƯỢNG thượng THIỆN hạ PHƯỚC Húy NHỰT Ý (1924 – 1986).
Tông chủ, Khai sơn Tông phái Liên Tông Tịnh Độ Non Bồng
"Trong đời mạt pháp, không gì hơn Pháp Môn Niệm Phật...” Vâng lời huyền ký của Đức Bổn Sư, nối chí tiền nhân, thừa kế dòng pháp chơn truyền, Đức Tôn Sư Hòa thượng thượng Thiện hạ Phước đã hiện thân nơi cõi Ta-bà, dùng pháp môn Niệm Phật làm phương tiện tối thắng để khai thông chơn lý, tiếp dẫn chúng sanh. Công trình hoằng hóa của Ngài không chỉ kiến tạo nên một Phật quốc Tịnh độ nhân gian mà còn thắp lên ngọn đuốc từ bi, soi rọi cho hàng vạn Tăng Ni, Phật tử trên con đường tìm về bờ giác.
Dù báo thân đã viên mãn nơi trần thế, nhưng đạo hạnh và di sản mà Ngài để lại vẫn còn sống mãi trong lòng Tông môn Liên Tông Tịnh Độ Non Bồng, như một nguồn cảm hứng bất tận cho những người con Phật trên hành trình tự độ và độ tha.
THÂN THẾ VÀ NHỮNG NĂM THÁNG NUÔI CHÍ LỚN
Hòa thượng Tôn sư, thế danh Lê Minh Ý, sinh lúc 6 giờ sáng ngày mùng 01 tháng 07 năm Giáp Tý (1924), nhằm tiết Đại thử, tại thôn Nhật Tảo, làng An Nhựt Tân, tỉnh Long An. Thân phụ ngài là cụ Lê Văn Đẩu, một nhà Nho uyên thâm; thân mẫu là cụ bà Nguyễn Thị Hoạt, một người phụ nữ hiền đức, gia phong nề nếp. Do thời cuộc chiến tranh Việt – Pháp, Ngài cải tự thành Lê Văn Mười.
Sinh trưởng trong một gia đình nông dân nhưng kỷ cương, gia giáo, Ngài là con út trong chín anh chị em. Bất hạnh thay, mẫu thân từ trần sớm, Ngài lớn lên trong tình thương và sự dạy dỗ nghiêm cẩn của thân phụ. Được truyền thụ tinh hoa Nho giáo và pháp tắc nhân đạo từ thuở nhỏ, hạt giống Bồ đề và ý chí xuất trần đã sớm nảy nở trong tâm hồn son trẻ của Ngài.
Từ năm 16 đến 19 tuổi, gót chân hành giả đã đưa Ngài vân du khắp non cao tự cổ, tìm thầy hỏi đạo, quyết chí tu học pháp môn Niệm Phật. Tâm nguyện xuất gia của Ngài mãnh liệt đến độ có thể chuyển hóa được cả gia quyến. Sau này, khi đã xuất gia hành đạo, Ngài đã độ được cho thân bằng quyến thuộc nội ngoại, cháu con và đông đảo bạn bè, bà con láng giềng nơi quê nhà quy y Tam Bảo, trở thành Tăng, Ni, Phật tử.
SỰ NGHIỆP VỚI ĐẠO PHÁP VÀ DÂN TỘC
Năm 1945, sau khi thân phụ qua đời, trước tiếng gọi thiêng liêng của non sông, Ngài đành tạm gác lại chí nguyện xuất trần, tình nguyện đứng vào hàng ngũ kháng chiến chống ngoại xâm. Từ một người giao liên ở xã, Ngài dần được tín nhiệm và điều động về Ban Quân Báo Nam Bộ tại mật khu Sài Gòn – Chợ Lớn. Với bí danh Hùng Sơn, Ngài đã cống hiến tuổi trẻ của mình cho sự nghiệp giải phóng dân tộc.
Đến năm 1954, Ngài phải về miền Tây, nương mình nơi chốn thiền môn tại chùa Bửu Quang (Châu Đốc) – một ngôi cổ tự có truyền thống Tịnh độ và tinh thần yêu nước. Chính nơi đây, cơ duyên học Phật đã đến. Ngài được tham học pháp môn Niệm Phật với Đức Sư Ông thượng Bửu hạ Đức và trở thành đệ tử tâm đắc, được ấn chứng tâm pháp. Vâng lời Thầy dạy: “nên về miền Đông hành đạo, về sau sẽ được công viên quả mãn…”, Ngài đã khởi đầu cho một sự nghiệp hoằng hóa vĩ đại.
Năm 1956, Ngài về Biên Hòa, tham vấn cầu pháp với Hòa thượng Hồng Ân – Trí Châu tại Long Sơn Cổ Tự (Tân Uyên, Bình Dương). Cũng tại đây, Ngài đã tiếp nhận những vị đệ tử xuất gia đầu tiên, trong đó có Trưởng tử Ni sư Huệ Giác, người sau này đã kế thừa xứng đáng đạo nghiệp của Tôn sư.
Năm 1957, đạo hạnh và uy nghi của Ngài đã khiến chư Tăng tại Tổ đình Linh Sơn (Núi Dinh, Bà Rịa) cảm phục, quyết định cung thỉnh Ngài về trụ trì. Tại chốn non bồng nước nhược này, Ngài đã thể hiện chí nguyện lớn lao: khai sơn pháp phái, kiến lập nên tông phái Liên Tông Tịnh Độ Non Bồng, đồng thời trùng tu ngôi cổ tự, khẩn hoang, biến chốn hoang sơ thành một tòng lâm thắng cảnh.
CÔNG HẠNH HÓA ĐỘ VÀ SỰ NGHIỆP GIÁO DỤC
Với tâm nguyện từ bi, Tôn sư đã kiến tạo nên những Phật sự mang đậm dấu ấn Bồ Tát hạnh:
Sự nghiệp từ thiện xã hội: Giữa núi rừng, Ngài sáng lập Phật Giáo Từ Thiện Xã Hội Miền Đông, thành lập Cô nhi viện Phước Lộc Thọ và Cô nhi viện Từ Ái (1961), cưu mang hàng trăm trẻ em mồ côi, người già neo đơn, quả phụ và bao bọc, nuôi dưỡng nhiều gia đình cách mạng gặp khó khăn.
Sự nghiệp đào tạo Tăng Ni: Ngài luôn dạy: “Người Thích tử phải thực hiện tu tập đầy đủ ba môn Văn Tư Tu, vì chính đó dẫn đến chứng nhập vô trụ xứ Niết Bàn.” Với tâm niệm đó, Ngài sáng lập Phật Học Đường Tây Phương Bồng Đảo (1962) tại Tổ đình Linh Sơn. Nơi đây đã trở thành một trung tâm tu học quy mô, quy tụ trên 300 Tăng Ni sinh và nhiều bậc Giáo thọ sư danh tiếng. Từ Phật học đường này, hàng loạt Tăng Ni tài đức đã trưởng thành, trở thành những bậc trụ trì, viện chủ hoằng dương Chánh pháp khắp mọi miền đất nước, làm rạng danh Tông môn.
Tuy nhiên, con đường hành đạo của Ngài cũng trải qua vô vàn gian khó. Do là nơi hậu cần, che chở cho cách mạng, Tổ đình Linh Sơn đã phải hứng chịu bom đạn khốc liệt. Đỉnh điểm là trận không kích ngày 30 tháng 07 năm Ất Tỵ (1965) đã thiêu hủy hoàn toàn cơ sở vật chất, gây thương vong cho nhiều Tăng Ni và cô nhi. Trước nỗi đau thương mất mát, Tôn sư đã cùng Tăng Ni tản cư về Biên Hòa, nén đau thương để tiếp tục Phật sự, xây dựng nên Quan Âm Tu Viện (1966) làm nơi tu học và tiếp tục sự nghiệp từ thiện.
NHỮNG DẤU CHÂN HOẰNG HÓA
Cuộc đời Tôn sư là một hành trình không mệt mỏi vì đạo pháp. Ngài đã đến nhiều nơi để trùng tu, xây dựng và giáo hóa, để lại những dấu ấn sâu đậm:
Tổ đình Linh Sơn (Bà Rịa): Nơi khai sơn môn phái.
Nhứt Nguyên Bửu Tự (Bình Dương): Nơi xương minh Tịnh độ với khóa niệm Phật "Bá Nhựt Trì Danh" hằng năm.
Long Sơn Cổ Tự (Bình Dương): Nơi Ngài trùng tu trang nghiêm để báo đáp ân Sư cầu pháp.
Tịnh xá Thắng Liên Hoa (Biên Hòa): Ngôi thắng cảnh ven sông Đồng Nai do chính Ngài xây dựng.
Chùa Long Phước Thọ, Long Phước Điền (Long Thành): Nơi Ngài khai rẫy, làm nông thiền.
Với những đóng góp hỗ trợ phát triển nền Phật giáo nước nhà thời ấy, ngày 27 tháng 12 năm 1978, Ngài đã được Trung ương Giáo hội Phật giáo Tịnh Độ Tông tấn phong Hòa thượng và bổ nhiệm chức vụ Đại Diện Trung ương Giáo hội tại miền Đông Nam Bộ.
NẾP SỐNG GIẢN DỊ VÀ TÂM NGUYỆN CAO CẢ
Dù ở ngôi vị nào, Tôn sư vẫn luôn giữ nếp sống ẩn dật, khổ hạnh và giàu lòng từ ái. Ngài thường dạy: “… ta có khổ mới biết thương người khổ, ta có nghèo mới biết thương người nghèo.” Có những lúc đất nước còn gian khó, Ngài tọa thiền giữa nắng táp mưa sa để cầu nguyện cho hòa bình. Khi được môn đệ thỉnh vào tịnh thất nghỉ ngơi, Ngài dạy: “mọi người còn khổ, ta không thể sung sướng an vui được…”.
Không chỉ giáo hóa bằng lời dạy, Ngài còn thể hiện tinh thần "nhất nhật bất tác, nhất nhật bất thực" của nhà thiền. Ngài thành lập 09 Ban Nông Thiền, khuyến khích Tăng Ni lao động sản xuất, tự túc kinh tế và hưởng ứng các phong trào trồng cây gây rừng, góp phần xây dựng quê hương sau chiến tranh.
MÃN NGUYỆN ĐỘ SANH
Thân tứ đại vốn vô thường. Do nhiều năm lao tâm khổ hạnh vì đạo pháp và chúng sanh, sức khỏe của Tôn sư dần suy yếu. Những năm tháng cuối đời, Ngài nhập thất cấm túc, chuyên tâm niệm Phật.
Vào ngày 30 tháng 07 năm Bính Dần (nhằm ngày 04/09/1986), nhận thấy nhục thân không còn tác dụng, Ngài đã dạy môn đệ đưa về Quan Âm Tu Viện. Tại đây, giữa tiếng niệm Phật của hàng ngàn môn nhơn đệ tử, Ngài đã an tường xả báo thân, giả từ cõi tạm để trở về với chư Tổ, chư Phật. Ngài ra đi, nhưng lời di huấn sau cùng vẫn còn vang vọng, nhắc nhở Tăng Ni, Phật tử phải giữ gìn đạo hạnh, tinh cần niệm Phật, làm việc công ích, để gặt hái được nhân lành quả tốt trong tương lai.
Hòa thượng Tôn sư thượng Thiện hạ Phước đã sống một cuộc đời trọn vẹn vì Đạo pháp và Dân tộc. Ngài là một bậc chân tu khả kính, một nhà lãnh đạo tài ba, một tấm gương sáng ngời về lòng từ bi và tinh thần nhập thế. Dù thời gian trôi qua, hình ảnh và công hạnh của Ngài sẽ mãi là ngọn hải đăng soi đường cho Tông môn Liên Tông Tịnh Độ Non Bồng và thế hệ hậu học noi theo.
Nam Mô Tây Phương Cực Lạc Thế Giới Tiếp Dẫn Đạo Sư A Di Đà Phật.
.
Ban Biên Tập LTTĐNB