Tóm tắt lịch sử Đức Phật Thích Ca Mâu Ni từ Giáng sinh đến Thành đạo.
P1:Lược sử Đức Phật Thích Ca Mâu Ni từ giáng sinh đến thành đạo:
Kinh Pháp Hoa chép :" Vì một nhân duyên lớn, Phật mới xuất hiện ra đời ". Đó chính là " Khai thị chúng sanh ngộ nhập Phật tri kiến ", để cho chúng sanh nhờ đó mà đổi mê ra ngộ, thấy tánh tỏ tâm, vượt sống khỏi chết, lìa khổ được vui.
Bắt nguồn một tôn giáo nào, vị giáo chủ bao giờ cũng là một tấm gương sáng cho tín đồ soi chung để tiến bước. Nhưng trong các vị giáo chủ của các tôn giáo hiện có trên thế giới này, không có một vị nào đầy đủ ý nghĩa cao đẹp, một đời sống sâu xa bằng Đức Phật Thích Ca Mâu Ni. Mỗi hành động, mỗi cử chỉ, mỗi lời nói, cho đến mỗi im lặng của Ngài đều là những bài học quý báu cho chúng ta.
Lịch Sử Đức Phật Thích Ca
Như chúng ta đều biết, đức Phật xuất thân là một vị Đông cung Thái tử, sống trong nhung lụa với tất cả những tiện nghi của một vị Hoàng đế. Nhưng Ngài không đành lòng hưởng thụ riêng cho mình nên đã từ bỏ tất cả, vượt thành xuất gia để tìm đường giải thoát cho bản thân và nhân loại.
Tất Đạt Đa Cồ Đàm (Siddhārtha Gautama), một con người lịch sử, một thái tử thuộc dòng họ Thích Ca (Sakya), con trai của vua Tịnh Phạn (Suddhodana), sống tại thành Ca Tỳ La Vệ (Kapilavastu) cách đây gần ba nghìn năm. Tất Đạt Đa sinh vào ngày trăng tròn tháng Vesak, tương ứng với tháng năm thường lịch, năm 624 trước công nguyên dưới gốc cây Vô Ưu (Ashoka tree) tại vườn Lâm Tỳ Ni (Lumbini), nước Nê-pan (Nepal) ngày nay. Siddhartha có nghĩa là con người toại nguyện có đầy đủ phước đức và trí tuệ.
Sau khi thái tử sinh ra được 7 ngày, mẹ ngài, tức thánh Mẫu Ma-da (Māyādevī) mất. Người mẹ kế của ngài là Ma-ha Ba-xà-ba-đề Kiều-đàm-di (Mahāpajāpatī Gotamī) chăm lo. Khi tới tuổi 16, thái tử lập gia đình với công chúa Da-du-đà-la (Yasodharā) và có một người con trai duy nhất tên là La Hầu La (Rāhula).
Sống trong cảnh nhung lụa, giàu sang và sung sướng, nhưng thái tử vẫn cảm thấy không tự do và thoái mái, cùng với người thân cận của mình tên là Sa Nặc (Channa), thực hiện một chuyến đi ra khỏi 4 cửa thành hoàng cung để thăm các cảnh thật bên ngoài. Ra khỏi cửa thành, đi về hướng Đông, thái tử và Sa Nặc gặp người già; đi về hướng Tây, hai người gặp người bệnh; đi về hướng Nam, gặp người chết; và đi về hướng Bắc, gặp vị Khất sĩ. Một trong bốn cảnh thật mà thái tử chứng kiến, cảnh thật thứ tư không những là đề tài thiền quán cho thái tử, mà còn tạo nguồn cảm hứng cho thái tử sau này trở thành vị ẩn sĩ không nhà, sống không gia đình và không bị ràng buộc bởi gia đình và con cái. Làm ông hoàng chứng kiến tất cả những sự kiện hiện thực trong đời. Ngay từ thời bé thơ mà Ngài đã có một cái nhìn rất thiết thực về cuộc đời. Mặc dù vâng lệnh Phụ hoàng kế thừa và trưởng thành từ các nghi thức, nghi lễ của thế gian nhưng trong lòng Ngài lúc nào cũng canh cánh những sự kiện trước mắt mà Ngài chưa hài lòng. Ngài vẫn nhớ và thấy một cách tường tận những hiện thực trong cuộc đời là như vậy. Do đó, cuối cùng Ngài cắt đứt, từ giã Phụ hoàng, tất cả người thân để đi xuất gia. Với tấm lòng bao la rộng rãi, Ngài quyết tìm lối thoát hay một chân lý để giải quyết vấn đề sanh tử của kiếp người một cách rốt ráo.
Xuất gia năm 29 tuổi, học đạo với hai vị đạo sĩ Ālāra Kalāma và Uddaka Rāmaputta, trải qua 6 năm tu khổ hạnh với 5 anh em của ông Kiều Trần Như (Kondañña), nhà tu Tất Đạt Đa xét thấy rằng việc tu khổ hạnh và cực đoan của họ đã làm chướng ngại cho việc chứng đạo. Người quyết định chọn cho mình lối tu không tham đắm dục lạc và không khổ hạnh ép xác, tức là hướng thực hành Trung Đạo (majjhimāpaṭipadā) với con đường Thánh có tám làn xe chạy: Chánh Kiến (Sammā Diṭṭhi), Chánh Tư Duy (Sammā Saṃkappa), Chánh Ngữ (Sammā Vācā), Chánh Nghiệp (Sammā Kammanta), Chánh Mạng (Sammā Ājīva), Chánh Tinh Tấn (Sammā Vāyāma), Chánh Niệm (Sammā Sati), và Chánh Định (Sammā Samādhi).
Sau khi dùng bát cháo sữa do nàng Su Dà Ta (Sujata) cúng dường, nhận bó cỏ Kiết tường (Kusa) của người nông phu, đến Bồ Đề Đạo Tràng (Bodhgaya), Bồ tát Tất Đạt Đa kiên quyết ngồi thiền định dưới cội Bồ đề 49 ngày đêm cho tới khi thành chánh quả. Ngài thực tập thiền định từ thấp tới cao, quán niệm hơi thở ra vào đều đặn (Anapana Sati), an trú Sơ Thiền , Nhị Thiền, Tam Thiền, Tứ Thiền, Không Vô Biên Xứ Định, Thức Vô Biên Xứ Định, Vô Sở Hữu Xứ Định, Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ Định, Diệt Thọ Tưởng Định.
Đêm thứ 49, canh đầu, Bồ Tát chứng Túc Mạng Minh, biết rõ nhân quả nhiều đời trước của Ngài; canh giữa, Ngài chứng Thiên Nhãn Minh, biết rõ nghiệp báo nhiều đời trước của chúng sanh; canh cuối, khi sao mai vừa mọc, Ngài chứng Lậu Tận Minh, giác ngộ viên mãn – phát hiện ra bốn sự thật: Khổ , Khổ tập, Khổ diệt, Con đường đưa đến khổ diệt. Cuối cùng, Bồ tát thành Phật hiệu là Thích Ca Mâu Ni (Sakyamuni) tại Bồ Đề Đạo Tràng lúc 35 tuổi.
Sau khi Bồ Tát thành Phật, Phạm thiên Sahampati thưa thỉnh đức Phật ba lần để đi hoằng pháp và giáo hóa chúng sanh. Cuối cùng, đức Phật đồng ý những lời thỉnh mời của Phạm thiên, và tìm đến hai vị đạo sĩ trước đây để truyền đạo, nhưng cả hai vị đều qua đời. Đi đến vườn Lộc Uyển (Migadava) ở Sarnath, đức Phật nói bài Pháp đầu tiên cho năm người bạn đồng tu. Cả năm người này đều thấm nhuần diệu pháp và chứng quả A La Hán (Arhanta). Như vậy, Phật, Pháp và Tăng được hình thành tại đây.
Đức Phật và Tăng chúng chủ yếu nương vào thiền định để nuôi dưỡng tâm, nương vào của bố thí của người đàn việt để nuôi dưỡng thân, thích an trú vào môi trường thiên nhiên, và đạt được sự tu chứng, an lạc và hạnh phúc của tự thân để giáo hóa tha nhân. Sống đời sống không gia đình, quý Ngài có nhiều thời gian để tu tập và phục vụ chúng sanh, nương vào tình thầy trò, tình pháp lữ, tình đồng tu, tình hộ pháp và hoằng pháp để làm lợi lạc cho quần sanh.
Tiếp theo, nhà giàu có Da Xá (Dasa), gia đình Da Xá, các bạn, và các người thân quen của Da Xá được đức Phật giáo hóa và làm đệ tử của Người. Trong số đó, những vị đệ tử đức hạnh, tài đức, và nổi tiếng nhất của Người như:
Tôn giả Xá-lợi-phất (Sāriputta), Tôn giả Mục-kiền-liên (Moggallana), Tôn giả Ma Ha Ca-diếp (Maha Kassapa) Tôn giả Tu-bồ-đề (Subhuti), Tôn giả Phú-lâu-na (Purana), Tôn giả Ca-chiên-diên (Kaccayana), Tôn giả A-na-luật (Anurudha), Tôn giả Ưu-ba-li (Upali), Tôn giả A-nan (Ananda), Tôn giả La-hầu-la (Rahula), Nữ Tôn giả Kiều-đàm-di (Mahàpajàpati Gotami) – Vị Tổ Sư gương mẫu có khả năng thu nhiếp đại chúng, lãnh đạo Ni đoàn, và tu hành khổ hạnh đệ nhất, Nữ trưởng giả Tỳ-xá-khư (Visakha), Nam trưởng giả Cấp-cô-độc (Anathapindika), vua Tần Bà Sa La, Vua A-dục (Ashoka)…
Khi các đệ tử của đức Phật càng ngày càng đông, đức Phật động viên và khuyên bảo: “Này các Thầy Tỳ Kheo! Hãy ra đi nhiều hướng khác nhau để hoằng dương chánh pháp và cứu độ chúng sanh, hãy đem sự tu tập, an lạc và hạnh phúc của tự thân để giáo hóa tha nhân. Vì an lạc và hạnh phúc cho chư thiên và loài người, các vị hãy truyền bá chánh pháp cho muôn loài. Giáo pháp của Như Lai toàn hảo ở chặn đầu, chặn giữa, và chặn cuối, cả tinh thần lẫn văn tự. Các vị hãy công bố đời sống thánh thiện và hòa bình cho số đông trên khắp hành tinh này.”(Xem Mahāvagga 19 – 20).
Về sau, đức Phật giáo hóa rất nhiều hạng người khác nhau trong mọi tầng lớp xã hội, như các vua quan, quần thần, thương gia, tôi tớ, thậm chí những kẻ hốt phân, kẻ sát nhân và kỷ nữ. Giáo pháp và Tăng đoàn của đức Thế Tôn đều có khả năng dung nhiếp những người đến từ các giai cấp, tôn giáo, màu da, chủng tộc… khác nhau. Những ai có đủ duyên tu, học, hiểu, thực hành, và ứng dụng Phật pháp vào trong đời sống hằng ngày của mình một cách chánh niệm và tỉnh giác, thì họ có thể đem lại an lạc và hạnh phúc đích thực cho tự thân và cho tha nhân ngay bây giờ và ở đây trong cuộc sống hiện tại.
Các đệ tử của đức Phật chủ yếu bao gồm hai Chúng: xuất gia và tại gia. Cả hai chúng này đều hỗ trợ với nhau như hình với bóng làm yếu tố then chốt để cùng nhau đem đạo Phật đi vào cuộc đời và giúp đời thêm vui bớt khổ.
Hoằng dương chánh pháp trong 45 năm, tất cả những gì đức Phật dạy như nắm lá cây trong lòng bàn tay nhằm giúp con người nhận diện và chuyển hóa khổ đau, và giúp họ sống đời sống an vui và hạnh phúc ngay tại thế gian này.
Trước khi nhập Niết Bàn, đức Phật khuyên dạy các đệ tử: “Hỡi các đệ tử! Các pháp hữu vi đều vô thường và biến đổi. Các vị hãy tinh tấn tu học và thực hành phật pháp nhiều hơn nữa, để đem lại an vui và hạnh phúc cho tự thân và cho tha nhân. Đây là những lời giáo huấn tối hậu của Ta cho các người.” [Xem Trường Bộ (Dìgha Nikàya) – Kinh Đại Bát Niết Bàn (Mahàparinibbàna sutta) II số 16].
Trụ thế ở đời 80 năm, khoảng năm 544 trước công nguyên, lúc 80 tuổi, đức Phật nhập diệt tĩnh lặng, nằm nghiêng mình về hông phải, chân trái duỗi thẳng trên chân phải, đầu quay về hướng Bắc dưới hai cây song thọ tại rừng Sa La (Sala) tại quận Câu Thi Na (Kushinagar), Ấn Độ ngày nay.
Để tỏ lòng tôn kính và tri ân sâu sắc đối với đức Thế Tôn, mỗi người đệ tử của Ngài phải tự mình sống đúng với chánh pháp bằng cách không làm các việc ác, hãy làm các việc lành, giữ thân tâm thanh tịnh. Mỗi người chúng ta phải là món quà tu tập, hòa bình, an vui, và hạnh phúc đích thực để hiến tặng cho tự thân và cho tha nhân ngay cuộc đời này.
Nếu chúng ta học giáo lý của Ngài mà không hiểu rõ đời sống của Ngài, thì sự học hỏi của chúng ta còn phiến diện, thiếu sót. Ðời Ngài chính là những biểu hiện giáo lý của Ngài. Ngài nói và Ngài thực hành ngay những lời Ngài đã nói. Ðời Ngài là một bằng chứng hiển nhiên để người đời nhận thấy rằng giáo lý của Ngài có thể thực hiện được, chứ không phải là những lời nói suông, những không tưởng, những lâu đài xây dựng trên mây, trên khói.
Vậy cho nên khi chúng ta học hỏi đời Ngài, chúng ta không nên có cái quan niệm học cho biết để thỏa mãn tính hiếu kỳ, mà chúng ta cần phải tìm hiểu ý nghĩa thâm túy của đời sống ấy để đem áp dụng cho đời sống của chúng ta.
Làm được như thế mới khỏi phụ ý nguyện lớn lao của đức Phật khi giáng sinh xuống cõi Ta Bà này và đã cam chịu bao nỗi đau khổ, gian lao trong kiếp sống như mỗi người chúng ta.
1.Bồ Tát Hộ Minh tại cung trời Đâu Suất được chư thiên thỉnh tái thế để cứu vớt chúng sanh ở cõi Ta Bà.
2.Hoàng Hậu Ma Da nằm mộng thấy voi trắng sáu ngà từ trên hư không xuống, lấy ngà khai hông hữu của bà mà chun vào.
3.Thái tử Đản sinh vào ngày trăng tròn tháng vesak trước Tây lịch 624 năm, tại vườn Lâm-tỳ-ni cách thành Ca-tỳ-la-vệ 15 cây số. Ngài đi 7 bước nở 7 đóa hoa sen, một tay chỉ trời một tay chỉ đất nói rằng:" Thiên thượng thiên hạ, Duy ngã độc tôn". Sau khi sinh ngài được bảy ngày thì hoàng hậu Ma Da qua đời. Thái tử được giao cho người dì là Ma Ha Ba Xà Bà Đề nuôi dưỡng.
4.Vua Tịnh Phạn mời các vị tiên tri đến xem tướng Thái tử trong lễ đặt tên.
5.Tiên A Tư Đà xem tướng cho Thái Tử, tiên đoán rằng: Thái tử vì có 32 tướng tốt xuất hiện, nên sẽ trở thành một vị Thánh. Nhưng vua Tịnh Phạn lại chỉ muốn con mình làm một vị vua để nối dõi tông đường mà thôi. Vì thế, Tịnh Phạn Vương muốn đổi số mệnh con mình, nên đặt tên cho Thái tử là Tất Ðạt Ða *(Siddartha) theo tiếng Phạn, nghĩa là: "Kẻ sẽ giữ chức vị mà mình phải giữ". Chức vị mà Tịnh Phạn Vương muốn ám chỉ đây tức là ngôi Vua. Ngài không ngờ rằng chính thật chức vị của Ngài là chức vị Phật.
6.Thái tử Tất Đạt Đa dự lễ hạ điền.Ngài thấy người nông dân cầm roi đánh con trâu đang nặng nhọc kéo cày phía trước. Lưỡi cày xới tung đất lên cuốn theo những con trùng, có con bị nắng thiêu đốt, có con bi lưỡi cày cắt thành nhiều đoạn đang quằn quại. Lại có những con chim nhỏ bay xuống gấp lấy những con trùng đó, rồi lại có những con chim lớn đuổi bắt những con chim nhỏ. Ngài cảm thấy buồn phiền với những điều mình vừa trông thấy, nên đã ra một gốc cây to để thiền định.
7.Thái tử mỗi năm mỗi lớn, thì diện mạo càng thêm khôi ngôi, tài năng càng phát lộ gấp bội. Ngài có một sức khỏe hơn người, một trí thông minh xuất chúng.
8.Sau khi giành chiến thắng trong cuộc thi tuyển chọn phò mã. Ngài đã kết hôn với công chúa Da Du Đà La lúc ngài được 16 tuổi.
9.Thái tử được vua cha yêu quý, sống trong cuộc sống sung túc đầy đủ cung vang điện ngọc, đàn ca múa hát, vợ đẹp con ngoan. Nhưng vẫn cảm thấy lòng nặng trĩu trong nỗi băn khoăn thắc mắc.
10.Một ngày khi đi dạo bốn cửa thành, ngài đã nhìn thấy 4 hình ảnh đó là : một người già yếu, một người bệnh tật, một xác chết và một vị tu sĩ. Ngài nhận ra một điều là con người ta được sinh ra rồi già đi, rồi sẽ bị bệnh tật và cuối cùng sẽ chết cho dù người đó có là ai đi chăng nữa. Ngài trân quý hình ảnh siêu thoát của vị tu sĩ.
11.Ngài nhìn thấy các cung nữ say sưa, thân thể lõa lồ, nằm ngổn ngang trong phòng sau cuộc tiệc linh đình khiến ngài cảm thấy sự ô uế của con người.
12.Một đêm khuya thừa dịp quân lính canh gác và cung phi mỹ nữ say ngủ sau một tiệc linh đình, Thái Tử lén trổi dậy nhìn vợ con lần cuối để chuẩn bị rời đi khỏi thành Ca-tỳ-la-vệ.
13.Ngài gọi người giữ ngựa Xa Nặc dậy,cưỡi ngựa Kiền Trắc, rồi hai thầy trò trốn ra khỏi thành. Lúc bấy giờ nhằm đêm mồng tám tháng hai, và Ngài được 19 tuổi.
14.Khi đến bờ sông Anoma, ngài đã cắt tóc, trao lại ngựa, tháo bỏ tất cả trang sức quần áo đưa cho Xa Nặc và kêu Xa Mặc trở về.
15.Sau khi đã thọ giáo hết với 2 vị thấy đầu tiên là Alara Kalama và Uddaka Ramaputta ngài đã đến một khu rừng để tu ép xác khổ hạnh cùng với 5 anh em Kiều Trần Như. Sau 6 năm tu ép xác, thân thể ngài càng suy nhược, yếu ớt tưởng chừng sắp chết. Đến khi ngài nghe được tiếng đàn của đấng Phạm Thiên Indra, ngài liên tưởng đến loại dây đàn không quá căng cũng không quá chùng nên ngài đã phát hiện ra con đường trung dung – Trung Đạo. Ngài đã ăn uống bình thường trở lại. Điều này khiến cho 5 anh em Kiều Trần Như thất vọng và đã bỏ ngải để ra đi tìm nơi khác tiếp tục ép xác tu hành.
16.Ngài thọ nhận bát cháo sữa của nàng Su Dà Ta.
17.Sau khi thọ thực xong, Ngài đã đặt chiếc bát xuống dòng sông Ni Liên và thệ nguyện sẽ đạt được giác ngộ rốt ráo. Chiếc bát đã trôi ngược theo dòng nước. Sau đó ngài đã băng qua dòng nước và được anh nông dân cúng dường bó cỏ Kusa (một loại cỏ thơm), Ngài bèn dùng bó cỏ làm gối lót tọa thiền, rồi đến ngồi dưới gốc cây Bồ Đề mà phát nguyện:" Nếu ta không thành đạo thì dù thịt nát xương tan, ta cũng quyết k đứng dậy khỏi chỗ này".
18.Khi Ngài đang ngồi thiền thì bất chợt có một cơn mưa trái mùa rất lớn. Thần rắn Naga liền bò ra khỏi hang, quấn mình quanh chổ ngồi của ngài 7 vòng để nâng ngài lên và dùng đầu của mình để che mưa cho Ngài.
19.Ngài đã ngồi quán tưởng các duyên khởi, nhìn thấy được các kiếp trước của mình, của chúng sanh, sự hình thành và hủy diệt của thế giới, của nhiều thế giới.
20.Ðức Thích Ca đã ngồi nhập định 49 ngày đêm dưới gốc Bồ Ðề. Trong 49 ngày ấy Ngài đã chiến đấu với bọn giặc phiền não ở nội tâm như tham, sân, si, nghi, mạn...và chiến đấu với giặc Thiên Ma do Ma Vương Ba Tuần chỉ huy.
21.Trong đêm thứ 49, vào canh hai, Ngài chứng được quả "Túc Mệnh Minh", (thấy rõ được tất cả quá khứ của mình trong tam giới). Ðến nữa đêm, Ngài chứng được quả "Thiên Nhãn Minh" (thấy được tất cả bản thể của vũ trụ vànguyên nhân cấu tạo của nó). Ðến canh tư, Ngài chứng được "Lậu Tận Minh" (rõ biết nguồn gốc của đau khổ và phương pháp dứt trừ đau khổ để được giải thoát khỏi sanh tử luân hồi).
Từ ngày ấy, Ngài được Ðạo vô thượng, thành bậc "Chính Ðẳng Chính Giác", hiệu là Phật Thích Ca Mâu Ni. Ngày thành đạo của Ngài tính theo Âm lịch là ngày mồng 8 tháng 12, vào lúc sao mai mọc. Lúc ấy Ngài được 30 tuổi.
Nguồn: Tham khảo Phật học Phổ thông của HT. Thích Thiện Hoa và nguoiphattu.com.