NGUYỄN NGỌC HÒA
  • TRANG CHỦ
  • PHẬT PHÁP
    • Bước đầu học Phật
      • Thái độ học Phật
    • Lịch Đại Tổ Sư
      • 33 Vị Tổ Thiền Tông Ấn Độ và Trung Hoa
    • Tịnh Độ Tông
      • 13 Vị Tổ Sư
    • Giáo Pháp
  • ĐỨC PHẬT
    • Phật Đản
    • Nhân cách
    • Thành đạo
    • Thập đại đệ tử
      • Tôn Giả Ma Ha Ca Diếp
      • Tôn Giả Mục Kiền Liên
      • Tôn Giả Phú Lâu Na
      • Tôn Giả Tu Bồ Đề
      • Tôn Giả Xá Lợi Phất
      • Tôn Giả La Hầu La
      • Tôn Giả A Nan
      • Tôn Giả Ưu Ba Ly
      • Tôn Giả A Na Luật
      • Tôn Giả Ca Chiên Diên
  • KINH PHẬT
    • Kinh
      • Kinh Vô Lượng Thọ Phật
      • Kinh Quán Vô Lượng Thọ Phật
      • Kinh A Di Đà Phật
      • Kinh Đại Bảo Tích
      • Kinh Hoa Nghiêm
      • Kinh Đại Bát Niết Bàn
      • Kinh Trung Bộ
      • Kinh Trường Bộ
      • Kinh Tiểu Bộ
      • Kinh Tăng Chi Bộ
      • Kinh Tương Ưng Bộ
      • Kinh Đại Thừa Bản Sinh Tâm Địa Quán
      • Kinh Ánh Sáng Hoàng Kim
    • Luật
      • Bộ Luật Tứ Phần
      • Tỳ Ni Nhật Dụng Thiết Yếu
      • Quy Sơn Cảnh Sách
    • Luận
      • Đại Thừa Khởi Tín Luận
      • Vãng Sanh Tịnh Độ Luận
      • Trung Quán Luận
      • Đại Trí Độ Luận
  • DI SẢN PHẬT GIÁO
    • Di Sản Của Liên Tông Tịnh Độ Non Bồng
  • NON BỒNG
    • Tông Chỉ
      • Pháp Giáo Liên Tông Tịnh Độ Non Bồng
    • Nghi Thức
      • Nghi Thức Tụng Niệm Của Liên Tông Tịnh Độ Non Bồng
    • Ban Hoằng Pháp
  • TĂNG SỰ
  • VĂN HÓA - XÃ HỘI
  • TIN TỨC
    • Việt Nam
    • Quốc tế
    • Thông báo
  • GIÁO DỤC
  • TÀI LIỆU
    • TỦ SÁCH
  • PG & CÁC NGÀNH
    • Ẩm Thực Chay
  • PHÁP ÂM
  • TỪ THIỆN - XÃ HỘI
  • DIỄN ĐÀN
  • LIÊN HỆ
  • TRANG CHỦ
  • PHẬT PHÁP
    • Bước đầu học Phật
      • Thái độ học Phật
    • Lịch Đại Tổ Sư
      • 33 Vị Tổ Thiền Tông Ấn Độ và Trung Hoa
    • Tịnh Độ Tông
      • 13 Vị Tổ Sư
    • Giáo Pháp
  • ĐỨC PHẬT
    • Phật Đản
    • Nhân cách
    • Thành đạo
    • Thập đại đệ tử
      • Tôn Giả Ma Ha Ca Diếp
      • Tôn Giả Mục Kiền Liên
      • Tôn Giả Phú Lâu Na
      • Tôn Giả Tu Bồ Đề
      • Tôn Giả Xá Lợi Phất
      • Tôn Giả La Hầu La
      • Tôn Giả A Nan
      • Tôn Giả Ưu Ba Ly
      • Tôn Giả A Na Luật
      • Tôn Giả Ca Chiên Diên
  • KINH PHẬT
    • Kinh
      • Kinh Vô Lượng Thọ Phật
      • Kinh Quán Vô Lượng Thọ Phật
      • Kinh A Di Đà Phật
      • Kinh Đại Bảo Tích
      • Kinh Hoa Nghiêm
      • Kinh Đại Bát Niết Bàn
      • Kinh Trung Bộ
      • Kinh Trường Bộ
      • Kinh Tiểu Bộ
      • Kinh Tăng Chi Bộ
      • Kinh Tương Ưng Bộ
      • Kinh Đại Thừa Bản Sinh Tâm Địa Quán
      • Kinh Ánh Sáng Hoàng Kim
    • Luật
      • Bộ Luật Tứ Phần
      • Tỳ Ni Nhật Dụng Thiết Yếu
      • Quy Sơn Cảnh Sách
    • Luận
      • Đại Thừa Khởi Tín Luận
      • Vãng Sanh Tịnh Độ Luận
      • Trung Quán Luận
      • Đại Trí Độ Luận
  • DI SẢN PHẬT GIÁO
    • Di Sản Của Liên Tông Tịnh Độ Non Bồng
  • NON BỒNG
    • Tông Chỉ
      • Pháp Giáo Liên Tông Tịnh Độ Non Bồng
    • Nghi Thức
      • Nghi Thức Tụng Niệm Của Liên Tông Tịnh Độ Non Bồng
    • Ban Hoằng Pháp
  • TĂNG SỰ
  • VĂN HÓA - XÃ HỘI
  • TIN TỨC
    • Việt Nam
    • Quốc tế
    • Thông báo
  • GIÁO DỤC
  • TÀI LIỆU
    • TỦ SÁCH
  • PG & CÁC NGÀNH
    • Ẩm Thực Chay
  • PHÁP ÂM
  • TỪ THIỆN - XÃ HỘI
  • DIỄN ĐÀN
  • LIÊN HỆ
TIN TỨC»GIÁO DỤC

Tập học Phật Pháp của Phật tử Bát Quan Trai (bài 2)

19/04/2019 07:50 1432

NHỮNG ĐIỀU CẦN YẾU
CỦA NGƯỜI PHẬT TỬ TẠI GIA

NÓI VỀ BẢN THÂN

 

Ni Trưởng Thích Nữ Thượng Huệ hạ Giác

Quan Âm Tu Viện, 09/12/Canh Thân 14/01/1981

 

Quí Phật tử được quy y Tam bảo, truyền trao Tam quy Ngũ giới đều được gọi là Phật tử, tức là con của Đức Phật.

Cho nên bổn phận của các Phật tử tuy còn gia quyến bận bịu vừa lo sinh kế nuôi gia đình, vừa lo học hỏi chánh pháp để sửa mình tu thân. Công việc của người Phật tử tại gia, thật là bề bộn phức tạp, nên việc chuyên cần sửa tánh tu tâm, rèn thân, rèn đức, bồi hạnh thật rất khó khăn, nhưng với tinh thần phát tâm dõng mãnh, người Phật tử cũng phải cố gắng để mình thực hiện được 4 điều như sau:

  1. ĐẦU TIÊN PHẢI BIẾT CHÁNH KIẾN

Chánh kiến là gì?

  1. Chánh kiến là tay lái đưa chúng ta đến bến chân, thiện, mỹ.
  2. Chánh kiến là cửa ngõ duy nhất đi vào nhà đạo đức.
  3. Chanh kiến là phân định rành rẽ thiện và ác, biết phân biệt tường tận thật, giả, suy xét thấu đáo lý nhân quả. Cho nên người Phật tử điều kiện tiên quyết phải có chánh kiến.
  1. Chánh kiến là tay lái đưa chúng ta đến bến chân, thiện, mỹ

Trong xã hội hiện tại, người ta luôn luôn bưng bít che giấu sự thật. Bản tính sự thật lúc nào cũng bình thường và giản dị, nhưng ngặt vì những tư tưởng, óc tưởng tượng của con người không bằng lòng như thế. Thường con người ta hay thích, hay ưa những ảo tưởng để tầm vọng, sanh ra những chuyện phi thường, vẻ vời những hình dáng, màu sắc rực rỡ, lộng lẫy, vì thế người ta ít dám nhìn thẳng sự thật, cũng không dám nghe sự thật hay chân lý hiện đến thì họ liền xoay lưng chỗ khác không chịu nhìn. Có nghĩa là bình thường ta hay nói tôi thích sự thật, tôi thích thật tình, nhưng khi sự thật đến mà tốt với ta, có lợi cho ta thì ta vui và nhận và mỉa mai thay, nếu sự thật là điều xấu quấy của ta do ta tạo tác… thì ta ngoảnh mặt ngó nghiêng, giả vờ không hay biết. Như có một câu chuyện như vầy:

Xưa có một người ngu, cưới được cô vợ đẹp, anh rất yêu mến nhưng cô vẫn không thương yêu anh. Sau một thời gian ăn ở với nhau, cô vợ lại trộm tư tình với kẻ khác. Vì quá thương tình nhân nên cố ấy muốn bỏ chồng để đi theo người yêu rồi ngầm bảo một bà lão:

- Sau khi tôi đi bà kiếm một xác chết người đàn bà khác để trên giường và bảo với chồng tôi là tôi đã chết.

Bà lão được mướn tiền nên ưng thuận. Khi chồng cô ấy đi vắng, bà kiếm một xác chết để trên giường. Khi người chồng về, bà lão bảo: “Vợ anh đã chết rồi”. Người chồng đến xem và cũng tin là vợ mình đã chết, rồi thương xót khóc lóc, buồn thảm sắm sửa dàn cũi để hỏa táng, xong lại lượm xương đựng trong túi, ngày đêm đeo luôn bên mình.

Thời gian sau, tình thương cô vợ với người tình nhân đã phai lạt, cô vợ ấy trở về nhà cũ gọi chồng mà bảo rằng:

- Thưa anh, em là vợ anh trước đây!

Người chồng đáp:

- Thưa cô, vợ tôi đã chết lâu rồi, cô là người lạ nhận đùa đại vợ tôi, chớ nào có phải vợ tôi đâu.

Cô vợ đôi ba phen giải thích, ông chồng vẫn khăng khăng nhất định không tin.

Tỉ dụ trên đây để chỉ thái độ người đời nói yêu chơn lý mà sự thật không dám thừa nhận chơn lý. Như anh chàng kia nói rất yêu vợ, đến nỗi cam chịu mang túi xương khô bên mình, nhất định không nhận người vợ thật. Ôi một điều đáng cho ta suy gẫm?

Có khi họ cũng biết sự thật như vậy, nhưng rồi vì một lẽ gì đó… mà người ta muốn nói khác đi. Thí dụ như anh chàng tài nghệ tầm thường, tánh tình xoàng xỉnh, mắt lại lé, tướng lại lùn, đi đến ông Thầy xin xem tướng. Ông Thầy liền nói:

- Tướng anh tầm thường lắm, không có gì đặc sắc,

Khi ra về, anh vừa đi vừa chê ông thầy:

          - Thầy tướng này quá dỡ

Anh lại đến một ông Thầy khác, ông Thầy này lại nói:

-Tướng ông hiện giờ tầm thường, nhưng về sau sẽ phát đạt xuất sắc.

Lúc đó, anh vui tươi khen:

- Ông Thầy tướng nói thật hay.

Về nhân quả nói: “Làm ác mắc tai họa, làm lành được phước đức”, sự thật rõ ràng như vậy: “Trồng đậu được đậu, trồng hoa được hoa”. Gieo gió gặt bão, mà người ta không tin. Trái lại, hàng ngày cứ làm ác rồi lại chạy tìm thầy bói, coi cốt coi mình có họa gì không? Đó là những việc người có chánh kiến, có niềm tin chơn lý, rõ biết đạo Phật thì chắc chúng ta không thể làm như vậy.

  1. Chánh kiến là cửa ngõ duy nhất đi vào nhà đạo đức

Có khi chúng ta muốn hướng về đạo đức, tìm hiểu giáo lý tu hành, chúng ta đến với nhà sư mới tu chưa thấm nhuần đạo đức để cầu đạo. Các vị sư chân thành tự nhận đức độ của mình còn kém nên nói rằng: “Tôi cò phàm tục, những tánh xấu chưa dứt hết, còn đang nỗ lực trong việc tu hành, còn đang tu học” thì chúng ta lại liền từ giã để đi tìm sư khác. Khi đến ông sư nào đó liền nói: “Tôi đã chứng đạo quả, không còn tu tập nữa, thường có thần linh ủng hộ. Tôi rất linh hiển, ai nói lén, nói xấu tôi thế nào cũng bị phạt…” Khi nghe như vậy chúng ta lại khâm phục, xin thọ giáo quy y, cho là đã gặp bậc Thầy chơn tu đắc đạo.

Hoặc cầu học hỏi giáo lý, ta cần đến thỉnh vấn một vị sư, vị này khuyên dạy: “Muốn dứt khổ phải biết niệm Phật, bỏ hết tham sân si, phải biết tu bố thí, tu nhẫn nhục và nên học giáo lý”. Ta lại nói: “Ông sư này tầm thường quá, không có gì đặc sắc”. Rồi lại bỏ đi tìm ông sư khác. Ông sư này lại bảo: “Ráng tu rút kỳ ba để đến Hội Long Hoa bị Hồng Thủy trận chết hết…” Ta lại nói ông Sư này dạy đạo tiên tri vị bốc rất cao. Đây là những điều cho thấy sự thật bao giờ cũng bình thường giản dị mà người ta lại thích bóng bẩy cầu kỳ, cho nên lúc nào cũng trái ngược nhau sanh ra đụng chạm phiền lụy cho nhau. Bởi vậy người Phật tử cần phải gỡ cặp kính màu mới thấy rõ được màu sắc thật của sự vật.

Đức Phật của chúng ta giác ngộ chân lý cũng rất bình thường giản dị. Như khi xét con người là khổ thì Ngài chỉ rõ do nhân kết hợp, làm sao dứt khổ, Ngài chỉ rõ phương pháp hành y bát chánh đạo mà tu hành. Khi ngộ được hoặc rõ được như vậy gọi là đạt được pháp tứ đế. Hoặc nói về pháp quán nhân duyên thì Ngài dạy: “Vạn vật từ nhơn duyên sanh, nhơn duyên ly tán vạn vật tiêu diệt” ngộ được chỗ này thì gọi là giác ngộ lý nhơn duyên minh, vì là giản dị nên chính chỗ giản dị không làm thỏa mãn được số người có óc cầu kỳ, như họ hỏi?

- Vũ trụ nhân minh từ đâu có?

Đức Phật đáp:

- Do nhân duyên sinh

Họ lại hỏi:

- Thế nào là nhân duyên sinh?

Đức Phật đáp:

- Cái này có cái kia có, cái này sanh cái kia sanh (thử hữu cố bỉ hữu, thử sanh cố bỉ sanh)

Hoặc họ hỏi:

- Người tham sắc phải tu pháp gì?

Phật dạy: “Lấy quán bất tịnh trị”

- Người tham tài phải tu pháp gì?

Phật dạy: “Lấy nhẫn nhục và từ bi trị”

Qua những pháp thưa thỉnh, qua những lời dạy dỗ của Đức Thế Tôn, các pháp tu hành để đối trị ta thấy không có gì phi thường, kỳ lạ, chẳng qua như người có bệnh, ông lương y cho thuốc để trị bệnh rất thực tế, giản dị bình thường.

Giờ đây chúng ta tự xét coi lời Đức Phật dạy có đúng sự thật hay không? Vạn vật trong vũ trụ này không vật nào tự sanh hay ngẫu nhiêu có, tất cả đều do chung họp các duyên mà thành. Tìm khắp mặt đất không có một vật nào ngoài nguyên lý ấy.

Phật giáo là nền giáo lý rất bình thường giản dị, cũng như trong kinh Tứ Thập Nhị Chương, Đức Phật hỏi các thầy Tỳ Kheo:

- Mạng người sống bao lâu?

Chỉ có một thầy Tỳ Kheo trả lời: “Mạng người sống trong hơi thở” Đức Phật liền khen ông ấy hiểu đạo, có nghĩa là ông ấy thấy sự thật, nhận được sự thật, biết được sự thật. Bởi vì nếu nói sống ngàn năm, trăm năm hay ba mươi năm… cho đến một ngày đi nữa cũng chưa hẳn là đúng. Chỉ nói hơi thở ra không hít vào là chết, đó là sự thật muôn đời. Cũng như có một người hỏi vị Tổ Sư:

- Thế nào là đạo?

Tổ sự đáp:

- Con quạ đen, con cò trắng.

Con quạ sự thật là đen, con cò sự thật là trắng. Vì thấy được sự thật, nhận định được sự thật là đen, trắng là thấy đạo.

Về mặt nguyên lý thì rất bình thường giản dị, hiểu được nguyên lý ấy đem ra áp dụng rất tốt trong đời sống xã hội. Chúng ta không nên theo những đề xướng như những việc phi thường, huyền bí, linh thiêng, lộng lẫy, rườm rà, nó chỉ là lớp sơn, cái vỏ cứng làm lấp mất sự thật, ai muốn thấy sự thật, yêu chuộng sự thật đừng để cho sắc màu rực rỡ làm tối mắt, đừng bị các âm thanh hoa mỹ làm lãng tai, phải nhìn thấu suốt qua những ảo ảnh của sắc tướng thanh âm để thấu suốt tận tình mới thấy được sự thật. Ai bắt gặp được sự thật của mình rồi thì mình sẽ không còn lầm lạc, cuộc sống mới được an ổn (bình thường tức thị đạo). Đây chính là nền tảng vững chắc của hàng Phật tử giáo đồ con Phật trên con đường tiến đạo, nghiêm thân tu hành chánh đáng.

  1. Chánh kiến là phân định rành rẽ, thiện ác, biết hiểu tường tận thật giả, suy xét đạo lý nhân quả

Đã rõ biết được sự thật giả rồi, Phật tử chúng ta còn phải suy xét thấu đáo lý nhân quả cho rõ ràng.

Nhân quả không phải có một chiều như ta nói: “Nhơn nào quả nấy”, nó có cả hai chiều thuận và nghịch, nhơn cần có duyên mới sinh trưởng. Sự sanh trưởng của nhơn quả còn tùy thuộc duyên nào đầy đủ mới phát sinh, duyên trái nghịch không thuận thì nó tan hoại. Thí như gieo hạt giống xuống đất là đã có chánh nhơn, cộng thêm đủ phân, nước, ánh sáng v.v… đầy đủ thuận duyên như vậy chắc chắn hạt giống sẽ nứt mầm thành cây lúa, cây đậu, kết quả này thâu hoạch được mùa. Nếu có hạt giống, có phân, nước mà thiếu một vài điều kiện thời tiết thì bị thất mùa. Nếu có hạt giống mà không đủ các duyên thì hạt giống cứ trơ đó rồi hoại, hoặc hạt giống đã lên thành cây lúa, cây đậu mà bị sâu bọ vẫn không có bông trái, còn không biết bao nhiêu trường hợp không kể hết v.v...

Trong cuộc sống hàng ngày, chúng ta biết gây nhân lành được quả tốt, tạo ác tức mắc quả báo, nhưng nó không đơn giản một chiều như vậy. Nếu làm nhơn lành mà không tạo đủ duyên cho nó sanh trưởng cũng không có kết quả lành.

Thí dụ như người trưởng giả giàu có, thấy đứa bé mồ côi động lòng thương đem về nuôi. Nhưng tình thương không có, không chăm sóc, chỉ nuôi làm phước, không cho ăn học, tạo nghề nghiệp cho nó. Khi lớn khôn đứa bé này không mang ơn mà còn nói lời oan trách. Trường hợp này gọi là gây nhơn lành mà quả chưa trọn lành vì thiếu thuận duyên tăng trưởng nhân lành viên mãn. Trái lại, nếu vị trưởng giả biết nuôi đứa bé như nuôi con mình, chăm sóc cho ăn học tạo nghề nghiệp. Lớn khôn dù bội bạc thế nào nó cũng không thể quên ơn ông trưởng giả. Trường hợp đó là đủ nhơn, đủ thuận duyên để tăng trưởng quả lành chắc chắn. Gây nhơn gặp nghịch duyên nhứt định không có kết quả tốt. Thí như có một anh đi đường bị bệnh thiên thời, ông thầy thuốc hay được gia đình báo cấp cứu, ông nghe thương tình lật đật lấy thuốc gia truyền cứu cấp nên người bệnh được lành. Đến chừng hỏi ra biết người này là kẻ cướp giết ông Nội mình. Ông liền than oán: “Nếu ta biết nhà ngươi là kẻ thù thân tộc, ta để cho chết luôn cho rồi”. Đây là có nhơn tình mà bị duyên sâu phá hoại không có kết quả lành. Còn biết bao nhiêu sự kiện tương tự như vậy, nên người tu hành cần thấu đáo thông suốt nhơn quả.

Xét lý nhơn quả phải qua ba thời kỳ mới khỏi sai lầm. Lúc gieo nhơn khi gặt quả, thời gian ấy, hoặc dài, hoặc ngắn, mau chậm không nhất định. Nếu bị trệ, bị gián đoạn thì không thành nhơn quả được. Ta có thể ví dụ như ba người gieo nhơn một lượt: Người trồng lúa, kẻ trồng xoài, người trồng chuối. Đến cuối năm, người gieo lúa được gặt, sang năm sau người trồng chuối mới có chuối, trái lại người trồng xoài đến 4 năm sau mới có xoài. Tại sao đồng thời gieo giống mà kết quả sai biệt như vậy? Tuy đồng thời gian gieo giống, nhưng tùy loại giống có kết quả mau chậm khác nhau.

Có khi cùng một giống mà kết quả vẫn sai biệt, như cùng ươn xoài, nhưng ươn trên hai loại đất khác nhau, xoài trên đất tốt, phân phướng tưới nước đều thì lại có trái trước, nhiều và tốt. Trái lại trên đất xấu, ít săn sóc, thiếu phân nước thì cây xoài lâu có trái mà trái ít và xấu. Đó là do đất sai biệt, săn sóc phân phướng sai biệt.

Qua các thí dụ trên, để chúng ta so sánh việc làm của người đời cũng thế. Hàng Phật tử tu hành khi làm việc bố thí từ thiện giúp người, cúng dường xây cất chùa chiền cũng đều là tạo duyên phước lành sớm muộn cũng sẽ hưởng được nhân lành, sung sướng, gọi là phước báu hữu lậu. Riêng người xuất gia tu hành gieo cái nhân dứt hẳn sanh tử luân hồi thì gọi là gặt quả giải thoát là do trồng nhân vô lậu.

Thí dụ có ba người làm việc lành: Người thứ nhứt chuyên ròng bố thí, cho kẻ bần cùng, người thứ hai săn sóc thuốc men cho bệnh nhân, người thứ ba xây tịnh thất tu hành. Vài tháng sau bệnh nhân được lành đến tạ ơn người săn sóc, vài năm sau người nghèo cùng kia làm ăn phát đạt cũng tìm ân nhân để đền đáp, chỉ có người tu sĩ trong tịnh thất thì không thấy dấu hiệu gì về kết quả.

Lại như vầy nữa, cũng đồng thời hai người làm việc phước thiện. Thời gian sau có một người làm ăn phát đạt gặp toàn việc vui vẻ may mắn, còn anh kia vẫn lục đục không thấy gì lạ. Nếu chúng ta không rõ lý nhân quả một cách chính đáng, ta sẽ sanh ra nghi ngờ. Cũng có người làm phước lại không gặp phước gì cả, như vậy lý nhân quả bất công chăng? Thật sự lý nhân quả công bằng bình đẳng triệt để. Phải công bằng trong các duyên thì kết quả không bao giờ sai biệt. Rõ lý này để biết. Nếu gieo nhân đúng mà quả báo sai biệt nên kết quả sai biệt, lấy lý bình đẳng ấy mới chơn thật bình đẳng, công bằng ấy mới thật công bằng. Chúng ta không nên theo lối công bằng giả tạo, gây dựng bình đẳng bắt buộc. Như vậy không đúng với lý nhân quả.

Nếu rõ lý nhơn quả bình đẳng rồi, chúng ta tinh tấn sẵn sàng gieo nhân tốt, mãi mãi tận tâm, tận lực tạo duyên cho nhân ấy đủ điều kiện sanh trưởng để có kết quả tốt chắc chắn thì không còn chần chờ gì nữa.

Gieo nhân lành là có quả tốt, gieo nhân chủng giải thoát tức là có quả giải thoát.

Tóm lại, nhân quả là chơn lý phổ biến trên vũ trụ vạn vật trong vòng tương đối. Các nhà khoa học, triết học, luận lý học được phát triển đến nương lý nhân quả mà thạnh.

Hàng Phật tử chúng ta cần nhận xét lý nhân quả thấu đáo để tạo cuộc sống trong công việc hàng ngày, gia đình xã hội sẽ được an ổn tốt đẹp lạ thường. Chúng ta sẽ hăng hái làm thiện, dè dặt, phòng ngừa những lỗi ác từ nơi thân, khẩu, ý. Chúng ta an nhiên không sợ tai họa đến, bình thản lúc gặp dịp may mắn. Chúng ta sẽ sống như thường, như vậy, như không, bình an thơi thới tâm hồn. Nhơn quả là thứ linh dược bồi dưỡng an thần và tráng kiện con người chúng ta. Vì những lẽ trên nên người Phật tử phải có chánh kiến làm tiên quyết.

  1. PHẢI PHÁT TÂM CHÍ HƯỚNG THƯỢNG

Người Phật tử khi có chánh khiến rồi thì cần phải có phát tâm chí hướng thượng. Nghĩa là phải ung đúc tâm chí kiên cố, dõng mãnh tiến lên mãi mãi để tu, để học, để làm lợi ích chúng sanh, không bao giờ có một niềm thối chuyển. Muốn được như vậy, trước hết chúng ta phải phát tâm kính quý các bậc tôn đức để học hỏi, rèn luyện theo đức hạnh các Ngài.

Như trong kinh Trung A Hàm, Đức Phật dạy các thầy Tỳ Kheo như vầy: “Nếu chư Tỳ Kheo thực hành cung kính, khéo quan sát kính trọng những bậc hạnh thanh tịnh là đã có đầy đủ oai nghi, đủ pháp học, đủ thân giới, đủ thân định, đủ thân huệ, đủ thân giải thoát tri kiến, đủ niết bàn”.

Người xưa có câu: “Kính thầy mới được làm thầy” Đức cung kính đứng đầu trong các hạnh, nên chúng ta cần hâm mộ học tập theo đức hạnh, chúng ta không chịu gần gũi người đức hạnh, thì không làm sao có đức hạnh được. Cũng như người thích học môn nào thì sớm muộn sẽ được chuyên nghiệp môn ấy (nhất nghệ tinh, nhất thân vinh).

Vì thế, về phương diện đạo đức, chúng ta muốn tiến lên, trước hết phải phát tâm cung kính, khen ngợi các bậc tôn đức có hạnh lành. Đối với các bậc thanh tịnh được ta khen ngợi cung kính, các Ngài không thấy thêm bớt gì, nhưng riêng phần chúng ta được ảnh hưởng cao đẹp lớn lao. Vì thế chúng ta phải nương về các Ngài để học hỏi đức hạnh, gieo sâu tâm niệm thuần nhã về đức lành, hạnh tốt, vừa ung đúc tâm chí hướng thượng nhằm mục đích tiến lên của chúng ta, và phải nghĩ rằng đây là cội pháp lành, là bóng mát, là con thuyền thanh lương đưa chúng ta đến bến cao thượng an lành.

Cũng như có người hiểu lầm nói rằng: “Đức Phật đã quên thân, bỏ quyền thế, vương vị không quí tiếc để đi tu, tại sao khi sắp Niết Bàn Phật dặn chúng đệ tử nên thiêu lấy xá lợi xây tháp thờ?”

Đức Thế Tôn vì tâm lợi tha hiện tiền đã đem pháp lành giáo hóa đệ tử và các chúng sanh. Khi xa vắng môn đệ, con cháu, Ngài cũng để lại di tích mớ xương tàn, để đồ chúng quý trọng xây tháp cúng dường, nương đây mà sanh lòng cung kính, nhớ thương, tưởng niệm, tinh tấn tu hành. Do đó, người đời sau phát tâm hâm mộ làm theo Phật. Tìm hiểu tu học, những phương pháp Phật đã tu “Bắt chước tu theo” Đây là phương hướng gián tiếp giáo hóa người đời sau.

Trong kinh Pháp Hoa nói: “Nếu có người đối trước hình tượng Phật, cho đến chắp tay cung kính, sau này cũng sẽ thành Phật” là vậy đó.

Nếu chúng ta thương quý cung kính các bậc nào, tức là ta đã gieo mầm giống ấy vào tàng thức của ta rồi. Cũng như bột hương không phải là trầm nhưng ướp trầm thì thơm hương trầm, trà không phải sen mà ướp sen thì trà thơm sen. Huống chi ta đã sẵn tâm Phật mà niệm Phật quyết định chúng ta sẽ thành Phật là điều hiển nhiên.

Trong kinh Thủ Lăng Nghiêm có một đoạn đức Đại Thế Chí nói: “Như  tâm chúng sanh nhớ Phật, niệm Phật thì hiện tại hoặc vị lai chắc chắn thấy Phật, cách Phật không xa, nếu tâm có niệm Phật tất có Phật độ, cảnh Cực Lạc cũng tại tâm, không cần phương tiện gì khác tâm vẫn khai sáng. Ví như gần hương, thích hương thì lâu ngày thân được mùi thơm như hương, tâm gần Phật luôn thương nhớ Phật, tất nhiên có ngày tâm thành Phật, vì tôi biết dùng pháp hương quang niệm Phật để trang nghiêm tâm địa, nên Pháp môn này được gọi là “Hương Quang Trang Nghiêm”.

Cho nên người Phật tử đầu tiên qui hướng về Phật, Pháp, Tăng, Tam Bảo cần phải có chánh kiến để nương theo những vị có đức hạnh. Cái đáng tôn kính, cái đáng quý thì chúng ta theo về mới phát được tâm chí hướng thượng, mới gieo được chủng tử tốt, gọi là nhân chánh, quả chánh, quy y Tam Bảo là bước đầu của người Phật tử.

1. Quy Y Phật: Nương về Phật. Phật là đấng giác ngộ: Tự giác, giác tha, giác hạnh viên mãn, có phước túc và huệ túc đủ đầy (Quy y Phật lưỡng túc tôn). Phật là đấng đáng tôn kính.

2. Quy Y Pháp: Theo về học chánh pháp, bỏ hết những ham muốn xấu xa để tiến lên con người cao thượng, giải thoát an vui (Quy y Pháp ly dục tôn). Pháp là nguồn ân đáng tôn kính.

3. Quy Y Tăng: Là nương về học với bực Tăng đức, là vị lìa bỏ nhà thế tục, học giáo lý cao siêu, rèn tu đức hạnh, rồi đem hạnh lành, đức tốt giáo hóa chúng sanh tiến tu giải thoát, dứt con đường sanh tử luân hồi (Quy y Tăng chúng Trung tôn). Công đức Tăng thật đáng tôn kính.

Đây là ba ngôi quý báo mà chúng ta là Phật tử đầu tiên phải biết cung kính: Phật, Pháp, Thánh hiền tăng. Tuy nhiên, trong đời mạt pháp ít có bậc Hiền Thánh Tăng mà là phàm tăng cũng hay lợi dụng chiếc áo nhà tu để làm sinh kế, vì vậy quý Phật tử phải có chánh kiến, khởi tâm cung kính, phải dè dặt, thận trọng, cân nhắc, phải thân cận học hỏi để biết điều chơn lẽ chánh rồi mới nương về tu học, để sau khỏi phải sanh tâm chán lờn, khinh báng Phật pháp mà mất hết chủng tử tốt đẹp của ban đầu (tu như sơ tâm, hữu dư thành Phật). Đó là lời Phật dạy người đi tu tâm lúc nào cũng giống như khi mới phát tâm thì dư sức thành Phật.

Trong Kinh Hoa Nghiêm, Đức Phật dạy: “Nếu người ưa nghe Giáo Pháp mà chẳng nhàm chán thì giác ngộ được pháp bất khả tư nghì”.

Tóm lại, chúng ta cung kính các bậc đức hạnh để làm mục tiêu nhắm đến, khiến chúng ta đi không sai lạc. Kinh Đại Pháp Cú Đà La Ni nói: “Các Đức Phật ra đời duy có một việc này là: Vì muốn làm lợi ích cho thế gian, khiến thế gian sáng mắt. Để dứt tất cả tà đạo vậy”. Thật vậy, nhắm đúng thì bắn đúng, như người đi biển đã trông thấy ngọn hải đăng, người đi trong rừng hoang, sa mạc mà có mang theo la bàn. Trong kinh Phật Bổn có dạy: “Nếu ai gần gũi ác tri thức, đời này chẳng được tiếng tăm tốt, bởi vì gần gũi bạn bè xấu, đời sau sẽ đọa địa ngục A tỳ, ai mà gần gũi thiện trí thức, hiện tại dầu chẳng được lợi thế gian nhưng đời sau sẽ được hết nhân khổ”. Trong kinh Hoa Nghiêm, Đức Phật dạy: “Này thiện nam tử: Bồ tát nhờ sự giúp đỡ của thiện tri thức mà chẳng sa đọa ác thú, nương nhờ sự thành tựu của thiện tri thức mà được tự tại thọ sanh, nương nhờ sức mạnh của thiện tri thức mà phá tan nghiệp báo, nhờ mặc áo giáp nhẫn nhục của thiện tri thức mà chẳng bị một lời nói xấu ác, và nương nhờ sự sanh trưởng của thiện trí thức mà tiêu diệt được các tội lỗi kiêu mạn vậy”.

Lại nữa, trong kinh Phật Bổn Hạnh đức Phật dạy Ngài Nan Đà như vầy: “Nếu ai gần gũi kẻ thiện trí thức, thường tự tùy thuận thấm nhuần đạo đức của các bậc ấy thời được tiếng tăm tốt đẹp vang khắp”.        

Lại trong kinh Thiện Sanh Tử cũng nói rằng: “Gần bậc Thầy cao đức, hay kiến học, siêng năng, đem về đạo lành, cho trò làm với kẻ hiền hữu. Đó là năm điều mà Thầy đối với trò” và trong kinh Lục Phương Lễ, Thầy dạy đệ tử có năm điều:

  1. Khiến trò mau hiểu
  2. Dạy trò thật giỏi (hơn đệ tử kẻ khác)
  3. Phải dạy trò biết rồi nhớ chẳng quên
  4. Phải nói các điều nghi nan cho trò hiểu rõ
  5. Muốn khiến trí tuệ của trò cao hơn mình.

Thế nên cung kính là một trợ duyên đắc lực nhất cho chúng ta tu hành viên mãn, đến đích đức hạnh của bậc thiện nhơn. Nó cần thiết như nước giúp cho cây cỏ được xanh tươi. Vì vậy chúng ta cần phải cung kính các bậc tôn túc thật đức hạnh.

  1. PHẢI LẬP ĐỨC TỰ TIN

Người Phật tử có lòng tôn kính các bậc đức hạnh đã phát tâm chí hướng thượng. Nhưng thiếu đức tự tin thì chí ấy cũng không thành đạt được, cho nên chúng ta phát tâm cung kính Phật tức là muốn làm Phật, như không tự tin mình có khả năng thành Phật thì ý muốn cao đẹp ấy cũng dần dần tiêu ma, Bởi vậy, chúng ta đối với các bậc đức hạnh cần phải có lòng cung kính, phụng thờ để học hỏi cái hay, cái tốt, cái thiện, cái lành, cái sáng tạo của các Ngài, phải nương bước nối tiếp làm như các Ngài, chớ đừng nghĩ rằng mình không thể làm tâm chí lớn lao ấy được. Nếu bị suy nghĩ như vậy thì không bao giờ ta có thể tiến lên làm người đức hạnh cao đẹp được. Cho nên kinh Hoa Nghiêm nói: “Như người ta có tay vào trong núi báu tự do lấy ngọc, người có lòng tin cũng vậy, vào trong Phật pháp tự do lấy của báu vô lậu”. Trái lại kinh Tâm Địa Quán cũng dạy rằng: “Như người không tay khi đến núi báu không lấy được gì. Người không lòng tin khi gặp Tam bảo cũng không ích gì”. Cho nên luận trí độ có dạy: “Phật pháp như biển cả, phải có lòng tin mới vào được” và kinh Tiểu Địa Quán dạy rằng: “Vào kiến Phật pháp lấy lòng tin làm gốc, qua sông sanh tử lấy giới pháp làm thuyền” Kinh Niết Bàn Phật dạy: “Người có lòng tin mà không hiểu giáo lý thì để tăng trưởng vô minh mờ ảo, người hiểu giáo lý mà không lòng tin thì sẽ tăng trưởng tà kiến”, vì thế lòng tin và hiểu biết phải cùng đủ để làm cội gốc tu hành.

Vậy chúng ta không nên khinh mình, phải trọn tin tưởng tu hành tinh tấn thì mới đạt được quả lành cao thượng, mới mong ra khỏi con đường sanh tử luân hồi mê khổ, đến được bến an lạc giải thoát, an vui tự tại. Có một hôm Đức Phật quở Ngài La Hầu La như vầy: “Sao ngươi không noi gương các vị La hán, đức hạnh mà sửa nết?”. Ngài La Hầu La bạch Phật: “Việc các vị ấy làm, con không làm nỗi”. Phật nói: “Kia là trượng phu, ta cũng trượng phu, chớ tự khinh mà lui sụt”. Đức tự tin là một cứ điểm trong hệ trọng, chúng ta cần giữ kiên cố thì mới chiến thắng được quân ma. Trong kinh Bảo Tích Đức Phật dạy: “Có lòng tin mới là Phật tử. Vậy nên kẻ trí phải thường gần gũi với người có lòng tin”. Luận khởi tín có dạy: “Lòng tin có bốn món:

  1. Lòng tin cội gốc : Nghĩa là ưa nghĩ pháp chơn như (tự tin mình)
  2. Tin Đức Phật: Có vô lượng công đức, thường nhớ gần gũi cúng dường, cung kính phát khởi căn lành để cầu được nhất thể trí
  3. Tin Pháp: Có nhiều lợi ích, thường nhớ tu hành cho rốt ráo
  4. Tin Tăng: Hay tu hành hạnh lợi mình và người, thường ưa gần gũi các vị Bồ tát, cầu học hạnh như thật.

Cũng như Bồ tát Thường Bất Khinh suốt đời chỉ làm một việc, đến đâu gặp ai cũng chắp tay thưa: “Tôi không dám khinh các Ngài, các Ngài đều sẽ thành Phật”. Đó là Ngài gieo cho chúng ta tự tin, nên thấy các việc làm của Chư Phật, Bồ Tát biết khen là hay, là tốt, đáng kính thờ, song cho rằng mình không thể làm nỗi. Do điều nghi này khiến chúng ta không tiến bước cao đẹp được mà có khi còn bị lui sụt là khác. Việc làm của Ngài Thường Bất Khinh nghe qua rất là tầm thường, nhưng rất quan trọng đối với người thiếu đức tự tin như chúng ta. Đây là tiếng cảnh giác đánh thức mạnh để gây cho chúng ta thêm một niềm tin mãnh liệt. Khi có niềm tin vững chắc rồi thì còn lo gì, ngần ngại gì trên con đường đạo xa xôi không đi đến đích. Trong kinh Phạm Võng nói: “Đứng đầu tất cả hạnh là đức tin, vì cội gốc các đức vậy”. Lại nữa Kinh Đại Trang Nghiêm nói: “Tất cả các công đức, đức tin là sứ mạng, trong các của báu đức tin là đứng đầu, đức tin là ngọn đuốc lớn nung chí đạo. Một công đức nuôi lớn tất cả các pháp lành, dứt trừ lưới nghi, thoát vòng ái, mở hướng Niết bàn đạo vô thượng, tin lòng trong sạch không nhơ bẩn. Hay dứt trừ kiêu mạn là gốc cung kính, là của thứ nhất trong kho pháp, là tay trong sạch lãnh các hạnh, tin hay huệ thí tâm không tham, tin hay vui mừng vào Phật pháp, tin hay thêm lớn trí công đức, tin hay quyết đến cõi Như Lai”. Luận Thập Trữ Tỳ Bà Sa cũng nói lên niềm tin sâu công đức như sau:

Nếu người trồng căn lành
Nghi thì hoa không nở
Lòng tin được trong sạch
Hoa nở liền thấy Phật.

Kinh Hoa Nghiêm dạy: “Bồ tát đối sanh tử, khi đầu tiên phát tâm, một lòng cầu giác đạo, bền chắc chẳng khó lay, đây một niệm công đức sâu rộng không ngăn mé. Như Lai phân biệt nói trọn kiếp không thể hết”.

Cũng có người thấy công hạnh lớn của Phật, Bồ tát, nghi ngờ sợ mình làm không kham, rồi kiếm cách nói nghiệp nặng, nghiệp lực lôi cuốn nên không thể làm được, tu được v.v… Tuy nhiên, nghiệp lực vẫn có nhưng không phải cố định, chịu như vậy không thay đổi. Vì nghiệp phát xuất từ tâm niệm, hành động của chúng ta, một khi tâm niệm hành động được thay đổi thì nghiệp cũng tùy tiện chuyển hướng gọi là chuyển đổi nghiệp. Thí như cây cỏ, nhà cửa đều nương nơi đất, một khi đất đã chuyển động thì cây cỏ, nhà cửa cũng lung lay. Đã là con người thì ai khỏi mang nghiệp đời quá khứ, ai cũng có tội lỗi, nhưng chúng ta phải vận dụng sức mạnh, un đúc niềm tự tin vững chắc, dùng gươm trí tuệ cắt đứt tất cả dây oan nghiệt, thoát mình ra khỏi vùng trời cao, bể cả để được ngao du tự tại thì còn gì vui thú cho bằng. Chúng ta không thấy sao? nơi Hội Pháp Non Đức Thế Tôn nói:

Hết lòng muốn thấy Phật
Chẳng tiếc gì thân mạng
Khi ta và chúng Tăng
Đồng đến núi Linh Thú

Lại kinh Bảo Tích Phật dạy:

“Nếu có Bồ tát đem vui thắng ý đến chỗ ta phát khởi ý nghĩ như gặp cha, người kia sẽ được vào trong hàng ngũ Như Lai như ta không khác gì”.

Kinh Hoa Nghiêm có đoạn Đức Thế Tôn dạy nên phát tâm bồ đề như vầy: “Nếu có chúng sanh nào, chưa phát tâm Bồ đề, một khi nghe tên Phật, quyết định thành đạo Bồ đề”. Bởi vậy đức tự tin là yếu tố hệ trọng của các hàng Phật tử. Thiếu nó chúng ta sẽ yếu ớt, người xanh xao, không có sức lực làm việc gì nỗi. Tự tin là nhiên liệu, là sức mạnh mẽ để đẩy mạnh tinh thần chúng ta thẳng tiến lên thành tựu đạo bồ đề. Phải hiểu rõ đại tín tâm tức là Phật tín, Phật tín tức là Như Lai – lời kinh Niết Bàn đã dạy. Và đây hiển hiện tuyệt vời “Chúng sanh tâm Phật tánh” của Hoa Nghiêm Hải Hội chúng ta còn gì nghi ngờ nữa mà không gói trọn niềm tin vững chắc, tinh tấn tu hành trọn kiếp người.

Trăng Bồ đề trong mát
Soi rốt ráo hư không
Chúng sanh tâm nước sạch
Bóng bồ đề hiện ngay

Thật lành thay! trong sáng thay! tâm không chúng sanh đồng với Tổ Phật không sai (theo lời thi của Tổ Phật trong Dương Lâm Tế: “Tâm không đồng Tổ Phật”.)

  1. LẬP ĐỨC TU THÂN RÈN TÁNH

Lập đức tu thân rèn tánh là gì? Là sửa thân cho được trong sạch, thanh tịnh làm các điều lành, bỏ các điều ác, rèn luyện tánh hạnh cho được nhu hòa, nhẫn nhục, bỏ hết những tánh nóng nãy, sân si, giận hờn, tánh tham, tánh ghen ghét, sầu muộn v.v… Người Phật tử muốn thân, khẩu, ý được trong sạch như vậy thì phải lấy 10 điều thiện làm căn bản tu tập. Mười điều thiện này là một gốc sanh tất cả các công đức, là những nấc thang đầu tiên đưa chúng ta lên quả vị Thánh Hiền Tăng, không ai trở thành đức hạnh mà thiếu 10 điều này. Nên trong kinh Thập Thiện Nghiệp ở phẩm thuyết minh tự thù thắng, Đức Phật dạy vua Long Vương như vầy: “Này Long vương: Ví như tất cả thành, ấp, xóm làng đều y theo đại địa mà được an trụ, tất cả trăm hoa, cây, cỏ, bụi, rừng cũng nương đại địa ấy mà được sanh trưởng. Thập thiện nghiệp đạo cũng lại như thế, tất cả nhơn thiên cũng vào đó mà an lập, tất cả thanh văn, độc giác bồ đề, các hạnh bồ tát, tất cả Phật pháp đều chung vào Thập Thiện Đại Địa này mà thành tựu”.

  1. Muốn vậy, Phật tử chúng ta đầu tiên phải lập hạnh

Không nên giết hại người và vật, mà trái lại chúng ta còn tập tánh hay thương xót từ mẫn, cứu giúp chúng sanh ra khỏi nạn khổ, như vậy mới xứng đáng là người Phật tử con của Đức Thế Tôn, phải biết mạng sống con người là giá trị tối cao trong tất cả giá trị, thì đương nhiên điều này con người làm trọng tâm đó vậy. Dù có tất cả của báu trên thế gian này mà mạng sống không được đảm bảo, thì con người đâu có giá trị gì. Chúng ta phải biết quý mạng sống của chúng ta, người khác cũng quý trọng mạng sống của họ như vậy. Muốn mình sống mà sát hại sinh mạng người khác thật là điều vô lý, bất công. Một dân tộc được gọi là văn minh thì phải biết quý trọng sinh mạng con người trên trái đất tất cả gọi là biết “Tôn trọng pháp nhân”. Cho nên người Phật tử giết hại sinh mạng chúng sanh khác để lấy máu thịt bồi dưỡng thân tâm thì rất là tội ác, trái với tâm niệm từ bi bình đẳng của Phật dạy: “Thương người như thương mình, điều gì mình không chịu, không làm cho kẻ khác phải chịu. Việc mình chẳng muốn hẳn người đâu ưa”.

Còn thêm điều nữa, chúng ta nên biết để tránh xa tội lỗi không nên làm. Có khi vì xui biểu của kẻ khác hoặc nấc thang vinh hiển mà mình xúc phạm, giẫm đạp lên sinh mạng người khác một cách dã man tội lỗi. Nên Đức Phật dạy trong kinh Hồng Danh Bửu Sám: “Ta không giết, ta không xúi biểu người giết, hay bằng lòng vui thấy người bị giết đều là phạm năm tội vô gián” (nhược tự tác, nhược giáo tha tác, kiến tác tùy hỉ ngũ vô gián tội). Con người phải được tôn trọng mạng sống, cho đến loài vật cũng vậy. Chúng ta là phật tử không nên ác tâm sát hại chúng nó. Bởi suy từ con người ra đến loài vật, con người sợ sự chết, thì loài vật cũng sợ bị giết hại. Tại sao chúng ta biết bảo vệ thân mạng mình, vô cớ lại dùng trí khôn sức mạnh để sát hại sinh mạng loài vật. Trong tất cả việc thiện không việc nào bằng phước đức cứu sống mạng người. Nên người xưa nói:

Dù xây chín đợt phù đồ
Không bằng làm phước cứu cho một người.

Phật tử chúng ta phải vận dụng tất cả khả năng sẵn có, mở lòng từ bi quảng đại của mình, hoặc mọi hợp tác cùng liên hữu, thân thiện tìm cách cứu thoát sinh mạng con người và loài vật, trong mọi hoàn cảnh bị nạn giết, bị bệnh hoạn, tai nạn v.v... Phật tử chúng ta nhiệt thành tận tâm cứu giúp, lại khuyên bảo mọi người cùng thực hành hạnh lành ấy, đây là điều thiện cần tích cực của hàng Phật tử chúng ta.

Trong kinh Thập Thiện nói về công đức xa lìa nghiệp sát, Đức Phật dạy vua Long Vương có 10 điều lợi ích như vầy, nếu xa lìa sát sanh thì được thành tựu 10 pháp không còn bức não. Những gì là 10 pháp?

  1. Đối với chúng sanh cùng khắp, bố thí đức vô húy
  2. Thường khởi lòng đại từ đối với các chúng sanh
  3. Được sạch hết tất cả tập khí giận hờn
  4. Thân thường không bệnh
  5. Mệnh sống lâu dài
  6. Thường được phi nhơn ủng hộ
  7. Thường không ác mộng, thức ngủ an vui
  8. Diệt trừ được oán nghiệp, oán thù tự giải
  9. Không sợ sa đường dữ
  10. Khi chết sanh lên cõi trời.

Đó là 10 công đức. Nếu ai đem công đức này hồi hướng đạo vô thượng chánh đẳng chánh giác, sau khi thành Phật thì được tùy tâm Phật thọ mạng tự tại lâu dài.

Vì công đức rộng lớn như thế, nên chư Phật hằng khuyên nhủ tất cả chúng sanh không nên gây nghiệp sát.

Hàng Phật tử lập đức tu thân, hạnh lành thứ nhứt chúng ta không nên sát hại sinh mạng mà lại cần giàu lòng bi mẫn cứu giúp người và vật được thoát nạn chết mới là quý báu.

  1. Lập hạnh không nên tham lam, trộm cắp

Đã là đệ tử của Phật phải xa lìa các điều tham lam trộm cắp, vật của người chẳng cho ta không nên lấy. Dù là cây rau, ngọn cỏ, cái khăn, cái áo, cây kim, sợi chỉ, nhà cửa, ruộng vườn, vàng bạc v.v… nếu người không cho mà ta tự tay lấy đều phạm tội trộm cắp. Người tham lam trộm cướp có 10 tội rất lớn, trong Luận Trí Độ nói:

1. Người chủ có vật bị mất thường giận

2. Ở đâu thường bị người ta nghi ngờ

3. Tâm khổ vì luôn tính mưu gian

4. Phường ác nhơn đến làm bạn, người hiền nên tránh xa

5. Tự phá hủy tướng lành nơi thân

6. Bị tội với quan

7. Của cải bị quan tịch thu

8. Gây nghiệp nhơn bần cùng

9. Chết đọa địa ngục

10. Đời sau dù được làm người nhưng nghèo khổ mạt kiếp, khi làm được của cải thì bị người xúm xài chung hoăc bị giựt lấy, hay lữa cháy tiêu tan hoặc sanh nhằm đứa con bất hiếu phá hủy tài sản tan tành.

Phật nói trong kinh Đại Hải Long Vương: “Chẳng ăn trộm của cải người ta là giàu to, vì chẳng bị quan, vua tịch thu, nạn nước lửa cháy trôi, không bị giặc cướp lấy, không có kẻ oan gia, không có ác tử mà được nhiều người ưa mến. Đi đến đâu cũng không khó vì đã dứt hẳn những điều lo sợ”. Là người Phật tử, chúng ta đã biết quý trọng sinh mạng con người thì tài sản là huyết mạch của người, nếu thiếu nó sẽ bị thương tổn đến tâm người. Chúng ta đau khổ khi mất của thế nào, người mất của cũng đau khổ như vậy. Vì thế ta không nên cướp đoạt của ai, ta không gây oan trái với người, cướp bóc của người thì đời này dẫn đến đời sau ta không có tiền khiến túc trái trộm cắp.

Hành động tham lam, trộm cướp thật là trái bất công, tội ác, Phật tử nguyện dứt hết đau khổ cần được an vui nên tránh xa trộm cướp như tránh xa hang hùm, miệng cọp. Chính mình không tham lam trộm cướp, không xúi biểu người làm, cũng không đồng ý với ai làm việc trộm cướp. Những việc trộm cướp chính thức là tự tay mình hành động, ngoài ra khi dùng mưu mô kế hoạch sang đoạt, lường lận của người cũng đều thuộc phạm vi trộm cướp. Kẻ trộm cướp là người ác phá hoại hết lòng từ bi và làm tăng trưởng tâm tham độc. Họ là người từ khước hết mọi an lành, trong mê muội mà lấy làm vui vẻ, đưa mình vào cửa ngục đen tối, khổ đau muôn đời. Ôi! thật đáng thương tâm.

Chúng ta là con Phật không có tâm tham lam trộm cắp của người, trái lại thấy người đói khổ thiếu thốn, ta cần phải phát tâm bố thí giúp đỡ để người được no ấm, an vui. “Thương người như thể thương thân”, lòng từ bi không cho phép chúng ta no ấm, an ổn để mặc người đói rét kêu than. Chúng ta nên xem thấy nỗi khổ của người như là nỗi khổ của mình, đem chia sớt nhau miếng cơm manh áo vì: “Một miếng khi đói bằng một gói khi no” lại có câu “Thố tử hồ bi”, con thỏ chết, con chồn biết sầu, lẽ nào ta là người mà đối với tình người chẳng đẹp. Thử hỏi trong lúc ta ngồi ăn mâm vàng, chén bạc, toàn sơn hào, hải vị để bồi dưỡng thân xác thêm nặng nề, khi chết chỉ là đống thịt thúi có ích gì? Trong khi anh chị em, cha mẹ, bạn bè còn bao nhiêu người chịu đói kém thiếu khổ. Nghĩ được như vậy ta mới có tình thương yêu giúp đỡ với câu “Lá lành đùm lá rách”. Ta vui sống đạm bạc, nhịn ăn, bớt mặc để chia sớt cho đồng bào nhân chủng chúng ta đang đói khát. Tuy thân này có gầy ốm, nhưng tinh thần cao thượng quý báu không ai bì được. Vậy hàng Phật tử hãy sẵn sàng lòng từ cứu khổ ban vui của Bồ tát, cứu nguy giải nạn giúp người, đây gọi là hành động tích cực về việc từ thiện. Chúng ta hãy lắng nghe tiếng khóc đau thương của những trẻ em nghèo mồ côi, quả phụ, của người già yếu, tàn tật, nghèo đói, trong muôn ngàn cảnh khổ, để rồi thấy lòng mình bâng khuâng, dạt dào tình thương yêu, phát lên tâm chí cao đẹp thúc đẩy chúng ta tinh tấn làm việc thiện cứu giúp muôn loài vạn vật chúng sanh. Đó là chúng ta đã thể hiện bi nguyện lòng từ của chư Bồ tát vậy.

Vì tham lam là khổ, bố thí thì được vui, thân tâm hằng tự tại, cho nên đức Phật dạy trong kinh Bát Đại Nhơn Giác: “Này các Tỳ Kheo, đa dục là khổ, có sống chết, mệt nhọc bởi lòng tham dục mới sanh ra, lòng ít muốn, biết đủ sống với vô vi, với đạo giác ngộ thì thân tâm thường được tự tại”. Lại trong kinh Di Giáo, Đức Phật nói: “Hỡi các Tỳ kheo: Phải biết những người đa dục vì cầu lợi nhiều, nên đau khổ cũng nhiều, những người thiểu dục không cầu, không muốn, không có khổ nào. Cho nên ai muốn lìa khổ cần phải tu tập hạnh thiểu dục, huống chi hạnh thiểu dục có thể sanh ra các công đức. Những người tu hạnh thiểu dục thời không đua đòi chiều theo ý người để cầu cạnh, nhất là chẳng bị các căn lôi kéo. Người tu thiểu dục tâm địa thản nhiên không có lo sợ, gặp việc có thừa, thường chẳng thiếu thốn. Lại tu thiểu dục là có Niết Bàn. Nên người Phật tử tu hành thà nên giữ đạo nghèo hèn mà chết, chẳng nên vô đạo giàu sang mà sống”.

Trong kinh Thập thiện, Đức Phật dạy vua Long vương xa lìa tham lam trộm cắp thì được 10 công đức pháp bảo tin. Những gì là 10 pháp:

  1. Giàu có, của cải, vua, giặc, nước, lửa và con hư không thể phá diệt
  2. Được nhiều người thương mến
  3. Không bị người phụ gạt
  4. Mười phương đồng khen ngợi
  5. Không lo tổn hại
  6. Tiếng tốt đồn khắp
  7. Ở trong đại chúng không hề sợ hãi
  8. Của cải, sinh mạng, hình sắc, sức lực an vui, hiện tài đầy đủ không thiếu.
  9. Thường sẵn lòng bố thí
  10. Mạng chết được sanh lên cõi trời

Đây là 10 công đức, 10 pháp bảo tín hữu ích như vậy, nếu ta đem hồi hướng công đức này đến đạo vô thượng chánh đẳng chánh giác, sau được thành Phật chứng trí thanh tịnh đạo bồ đề.

Vậy các hàng Phật tử muốn ra khỏi con đường ác đạo, lánh dữ, theo lành, được tròn thiện quả, hằng ngày chúng ta cần tu tinh tấn, bồi đức tu thân. Chúng ta quyết tâm giữ hạnh, không tham lam trộm cắp, an bần thủ phận, tu hạnh “Tri túc thường lạc” để đem lại nguồn vui hạnh phúc cho ta và cho tất cả chúng sanh.

  1. Lập hạnh đoạn lìa tà dâm
  1. Sắc dục là xiềng cùm của đời vậy, phàm phu say đắm không thể tự cứu, sắc dục là bệnh nặng nhất của đời vậy, phàm phu gặp nó lâm nguy khó tránh. Nên là đệ tử của Phật, chúng ta tuy còn tại gia cũng nên lập hạnh lìa tà dâm.
  2. Người Phật tử đã thọ Tam Quy, Ngũ Giới của Phật để rèn luyện tâm, sửa tánh, tu thân mình, bồi công lập đức để có hạnh tốt thì nên gìn giữ tâm trong sạch, không nên có tà hạnh, nghĩa là giữ giới: Không sát sanh, không trộm cắp, không tà dâm. Vật thuộc của người không được lấy, thì người thuộc về người không được xâm phạm. Nhất là tình thương thuộc sở hữu của ai họ không bao giờ chịu chia xẻ. Bởi vì chia xẻ tình thương có thể làm ly tán gia đình. Tình thương còn là sợi giây thiêng liêng ràng buộc giữa vợ chồng trong gia đình, mà Phật gọi sợi dây này là dây luyến ái. Nếu dây này đứt, gia đình tan vỡ. Để bảo đảm hạnh phúc gia đình, Đức Phật dạy các Phật tử: “Chồng vợ muốn được an ổn, hòa vui thì chồng hoặc vợ không được tà hạnh, vì tà hạnh là một hạnh xấu, chịu nhiều khổ sở không những ở đời này mà còn có quả báo buộc ràng về đời sau. Đó là một hành động tổn hại lớn lao, chẳng những chỉ hại cho gia đình người, mang họa về cho gia đình mình mà có thể còn đe dọa đến sinh mạng con người nữa”. Vậy chúng ta là Phật tử, có lòng từ bi, có trí sáng suốt, có nhân tâm, nhất định không tà dâm, và cũng không đồng ý hay tán thành việc ấy. Phật tử chúng ta chẳng những không tà dâm mà còn đem pháp trinh thuận dạy bảo trong gia đình mình và gia đình người, làm tốt đẹp nề nếp gia giáo con người trong xã hội được thêm thuần lương, thiện mỹ, vì nết trinh thuận là hạnh tốt đem lại an lành, hạnh phúc đến cho mọi gia đình.

Trong kinh Thiện Sanh Tử đức Phật dạy: Nếu người phạm tà dâm sẽ mắc phải sáu điều tai biến:

1 . Không tự bảo vệ được thân mình.

2 . Không bảo vệ được vợ con.

3 . Không bảo vệ được gia đình quyến thuộc.

4 . Do nghi ngờ sanh ra xấu ác.

5 . Oan gia có được cơ hội.

6 . Cực khổ vây quanh.

Lại nữa, trong Luận Trí Độ, Đức Phật dạy: “Dâm là hạnh bất tịnh, mê hoặc, mất chánh, hại mạng mình chết non, bị tội vì ngoan si, chết lại đọa ác đạo nên đừng bao giờ dâm loạn. Đức Phật lại nói tà dâm có 10 tội:

1. Bị nguy hại với vợ hay chồng mình

2. Vợ chồng bất hòa thường đánh cãi nhau luôn.

3. Các điều ác ngày cành tăng thêm, điều lành càng tiêu mòn

4. Tâm thân chẳng giữ được. Vợ, con (hay chồng, con) bị côi cút

5. Của cải ngày càng hao mòn

6. Có xảy ra các việc xấu, thường bị người nghi.

7. Dòng họ, bạn bè chẳng ai ưa mến,

8. Thường bị oán vì gieo nghiệp nhơn xấu

9. Chết đọa địa ngục

10. Được tái sinh làm người, gái thì bị cảnh chồng chung, trai thì vợ chẳng trinh chánh”.

Nếu hàng Phật tử chúng ta phạm những lỗi ác xấu này, thời sự nghiệp bị phế bỏ, của chưa làm ra được thời chẳng được thành tựu, của cải làm ra được dễ bị tiêu mất và của cải đã sẵn có chứa để từ lâu cũng bị tiêu hao hết. Gia môn bất hòa, con cháu xáo trộn, luôn luôn phiền lụy, hạnh phúc gia đình bị đe dọa sụp đổ tang thương.

Nên trong kinh Thập Thiện Nghiệp. Đức Phật có dạy vua Long Vương như vầy: “Nếu ai xa lìa được tà dâm thì được 4 đức cao quý mà người trí hằng ca tụng:

  1. Pháp căn đều thuận
  2. Thân tâm xa lìa rộn ràng
  3. Được đời khen ngợi tôn quí
  4. Vợ hoặc chồng không ai dám xâm phạm”

Đây là 4 điều lành tốt cho tất cả Phật tử do công đức xa lìa tà hạnh. Nếu chúng ta đem hồi hướng công đức này đến đạo vô thượng chánh đẳng pháp, sau khi thành Phật chúng ta sẽ được thân tướng trượng phu ẩn mật tàng là một trong 32 tướng tốt của Đức Phật vậy.

  1. Lập hạnh không nói dối mà phải nói lời chân thật

Phật tử đã giữ được hạnh không giết hại chúng sanh và các loài vật, không tham lam trộm cắp và không tà dâm, là đã trau giồi pháp thân huệ mạng của mình, được ba nghiệp trong sạch, trang nghiêm thanh tịnh, dứt được ba nghiệp ác của thân.

Trên đường tiến tu tích thiện nên các hàng Phật tử cũng phải giữ cho miệng được trong sạch, dứt bốn lỗi ác khẩu. Trong kinh Hoa Nghiêm Đức Phật dạy các đệ tử: “Các ngươi nên bỏ những lời nói vô nghĩa, thường phải tự giữ gìn lời nói, nói phải biết thời, nói phải thuận pháp. Những lời nói ngoài những lợi ích cho người dù là nói chơi cũng không nên nói”. Các Phật tử tu hành nói ra phải cần cẩn ngôn, cẩn hạnh là vậy. Trước khi nói phải đánh lưỡi bảy lần, ngươi xưa đã dạy, nói ích nước, lợi dân, nói người nhờ người nương, nói người được vui hết khổ, nói người hòa hợp yêu thương, nói lời dịu dàng ân hậu, nói hiếu đạo, nhân nghĩa, nói lời pháp lành người nghe được học hỏi tu tập giải thoát an vui nên nói.

Lời cam lộ hay chất đề hồ bổ ích lắm thay!

Thế nào là nói dối?

Có khi vì tự ngả, tự ái về quyền lợi hay danh dự của mình bị va chạm khiến mình nói lời có tính cách đảo ngược sự thật để được phần thắng về mình, hoặc lời nói đặt điều, đặt chuyện vu oan giá họa cho người đó là lời nói dối, là do tham lam, ác ý, ác tâm muốn nhục mạ hại người nên mình nói dối.

Phật tử chúng ta rất yêu chuộng sự thật, thích các hạnh lành, giàu lòng bi mẫn, không có tâm tham ác, mưu đồ, nên chúng ta không nói dối vì nói dối như thế rất tổn hại đến nhân phẩm của mình. Sự thật là sự thật, sớm muộn gì cũng là sự thật, chúng ta không thể nào bưng bít, che giấu được, nếu là tốt hoặc xấu, lành dữ v.v… Lỡ khi nói dối, lời nói thốt ra như bát nước đổ rồi làm sao múc lại đầy. Giá trị nhân phẩm con người bị mất chúng ta đâu có thể lấy tài sản danh dự để mua lại được sao? để bảo vệ giá trị nhân phẩm mình, cũng không nên làm đau khổ cho người khác. Phật tử chúng ta phát nguyện đoạn lìa lời dối giả, không tán thành nói dối. Đã là Phật tử không được nói đùa nghịch, chơi giỡn, dầu rằng không phạm trong giới nói dối, huống chi nói dối để hại người, giết người tổn thương cho người sao đành. Tuy nhiên, đôi khi bất đắc dĩ phải nói dối vì lòng từ bi cứu giúp người và vật mà thôi. Đã không nói dối, người từ bi phải nói lời chân thật, có tín nhiệm, có đức độ để khuyên nhũ người đời nên học nói lời chân thật, vừa làm lợi ích cho gia đình, cho xã hội và tương lai con cháu sau này. Cuộc đời đã điên đảo lắm rồi! Tráo chác đổi thay quá nhiều phiền muộn, chúng ta là Phật tử đừng làm thêm cho điên đảo, tráo chác phiền muộn, mà chúng ta cần có bổn phận phải làm sáng tỏ, làm tốt sự thật, để ung đúc điểm tô cho con người, cho đất nước quê hương thêm tốt, thêm rạng rỡ sự thật của nó. Cái nào đúng sự thật là tốt đẹp, là hữu ích lợi lạc cho con người như là tình thương yêu nhơn loại, yêu nước, yêu đồng bào, hiếu đạo cha mẹ, lễ nghĩa đối đãi với nhau, đó là đường hướng chơn chánh thể hiện sự tốt đẹp là sự thật. Trái lại không những thương yêu, giả dối đảo ngược những hành động, những lời nói điêu ngoa làm đau khổ, mất niềm tin chúng ta quyết tâm không học, không hành, không nói.

Vì những lợi ích như thế nên người Phật tử cương quyết phải nói lời chơn thật, để giáo hóa con người cùng nói lời chơn thật, làm sự thật để đóng góp hoàn thiện xây dựng xã hội mới được tốt đẹp sự thật.

Kinh A Hàm Chánh Hạnh có dạy như sau: “Chẳng đặng nói dối làm bằng chứng cho người khiến họ phạm pháp, chẳng đặng truyền nói lời dữ khiến họ cùng nhau cãi cọ tranh giành, chẳng đặng nói lời làm hại ý người; đừng chẳng nghe, nói nghe; chẳng thấy, nói thấy”.

Hể là đệ tử của Phật, chúng ta nên bỏ lời nói dối, thường nói lời chơn thiệt, hay nói lời chắc chắn, dù là trong mộng mơ cũng chẳng nên nói dối.

Trong Luận Trí Độ dạy rằng: Nói dối sẽ có 10 tội nặng:

1.  Hơi miệng bị thối, hôi

  1. Các vị thiện thần tránh xa, ác quỷ dễ làm hại
  2. Dù có nói thiệt người cũng chẳng chịu tin
  3. Kẻ trí dư luận, thường chẳng tham dự
  4. Thường bị chê bai, tiếng tăm xấu xa, đồn khắp thiên hạ
  5. Người chẳng kính trọng, khi có việc sai khiến họ chẳng vâng theo
  6. Thường lắm lo buồn
  7. Trồng nghiệp nhơn chê bai
  8. Thân hư, mạng chết phải đọa địa ngục
  9.  Nếu dược sanh làm người thường bị chê bai

Kinh Chánh Pháp Niệm Xứ, Đức Thế Tôn dạy: “Bỏ vọng ngữ được người đời hoặc thấy, hoặc nghe thảy đều tin kính, dù phải nghèo cùng, không của cải cũng được tất cả người đời cúng dường như Vua. Trong tất cả loài người:

* Người thật ngữ là ánh sáng rực rỡ, giống như ánh sáng từ mặt trăng rực rỡ hơn các vì sao.

* Trong các thứ ngọc, ngọc thật ngữ là quí hơn hết.

* Trong tất cả thuyền để độ qua dòng sanh tử, chiếc thuyền thật ngữ là hơn hết.

* Muốn xa lìa các hạnh tà ác, xa lìa vọng ngữ là hơn hết

* Trong các thứ đèn, đèn thật ngữ là sáng hơn hết

* Những kẻ giỏi dẫn đường đi trong ác đạo, kẻ dẫn đường thật ngữ là giỏi hơn hết.

* Tất cả vật thọ dụng, vật thiệt ngữ là hơn hết.

* Hết thảy các món thuốc trị bệnh, món thuốc thiệt ngữ là hay hơn hết.

* Trong tất cả các thế lực mạnh mẽ, thế lực thiệt ngữ là mạnh hơn hết.

* Trong các nơi nương về, nương về thiệt ngữ là hơn hết

* Trong tất cả bạn tri thức, bạn thiệt ngữ là hơn hết”

Nếu mọi người biết thu lấy của thiệt ngữ thì trong thế gian không ai đọa vào cảnh nghèo nàn và tàn ác, được sánh ngang với các bậc Trời

Thiệt ngữ hạnh lành quý báu thay! Chư Phật tử cố gắng hành theo thiệt ngữ này. Kinh Thập Thiện Nghiệp Đạo, Đức Thế Tôn dạy vua Long Vương xa lìa nghiệp vọng thì được 8 pháp trời khen ngợi như sau:

  1. Miệng thường thanh tịnh thơm mùi hoa Ưu bát
  2. Được đời tín phục
  3. Mở lời thành chứng nhơn thiên kỉnh ái
  4. Thường đem lời êm dịu an ủi chúng sanh.
  5. Được ý vui thù thắng, ba nghiệp thanh tịnh
  6. Nói không sai lầm, lòng thường hoan hỉ
  7. Mở lời tôn trọng, nhơn thiên vâng làm
  8. Trí huệ thù thắng không ai chê phục.

Đó là 8 công đức về hạnh xa lìa nói dối.

Nếu Phật tử chúng ta tu tập không nói dối và luôn nói lời chân thật rồi đem hồi hướng về đạo vô thượng chánh đẳng chánh giác, sau khi thành Phật chúng ta cũng sẽ được chơn thật ngữ của Đức Như Lai Thế Tôn không khác.

  1. Lập hạnh không nói hai lưỡi, tức không nói lưỡi hai chiều (không nói đòn xóc hai đầu)

Thế nào là nói hai lưỡi?

Người nói hai lưỡi là có ác tâm chia rẽ nhau về một vấn đề gì do xích mích hiềm tị, rồi đến người này bịa rằng người kia đã nói xấu về người này, lại đến người kia bịa rằng người này nói xấu người kia. Đây là lời nói ly gián, tạo điều kiện thù nghịch cho đôi bên có oán thù ganh ghét, nên dùng lời nói này để phân rẽ tình cảm, tình thân, sự hòa hợp của gia đình cha mẹ, anh chị em hoặc bạn bè trong xóm làng, nói rộng ra cả quan dân, nói cho mất thuận, mất hòa, mất thương yêu, mất tình thân, gây nhân tranh đấu, chia rẽ là một chủng tử bất thiện thuộc pháp ác. Đây là những mầm móng gây chiến tranh cho loài người, phá tình thương yêu của con người để đôi bên nghi ngờ chống đối lẫn nhau. Chúng ta là Phật tử tu thiện nghiệp, bỏ những hạnh tà ác, nên chúng ta quyết dẹp tâm ganh tị thù hằn, lấp hố sâu tội lỗi. Chúng ta không nói lưỡi hai chiều, mà cũng không xúi bảo và đồng ý tán thành người nói như vậy.

Ta đã quyết tâm không nói hai lưỡi mà cần phải nói lời hòa hợp, thương yêu, khiến cho mọi người thêm bạn bớt thù, thân thiết thương yêu nhau, đùm bọc giúp đỡ lẫn nhau từ trong gia đình đến ngoài xã hội, cũng như trong công việc đối xử ngoại giao nước ngoài. Chúng ta phải xứng đáng người Phật tử, có gương lành, có đức tốt, có lời nói diệu hiền, đem lại sự hòa thuận an vui cho mọi người, chúng ta phải lấy nước từ chứa trong thâm tâm, dùng lời nói làm mưa rưới mát tắt ngọn lửa tham, sân, si, phiền não của con người và tắt lửa đấu tranh lừng lẫy do tâm ác của con người. Lời nói hòa thuận là nguồn hạnh phúc chung của nhân loại, chúng ta phải khai thác chúng như một giếng nước trong mát, như có một bảo châu như ý luân vương, nó làm sáng đẹp cho ta, cho gia đình thân tộc, cho xã hội đồng bào và nhân loại trên thế giới. Chúng ta phải bảo vệ và giữ gìn nó như sinh mạng chúng ta vậy. Các cuộc chiến trên thế giới hay nước nhà đều do bất hòa mà ra. Bất hòa là hiểm họa lớn nhất từ cá nhân cho đến tập thể nhân loại mà nguyên nhân chính là do lời nói hai lưỡi, mâu thuẫn gây tội ác như vậy.

Cho nên, người Phật tử bất cứ ở hoàn cảnh nào, ở trường hợp nào nên đem lòng từ bi thương xót nói nên lời yêu chuộng, hòa thuận, mát mẻ để làm đẹp tình người.

Phải nói lời ích nước lợi dân như thế nào?

Chúng ta nên nói sao cho trên thuận dưới hòa, chị ngã, em nâng, nói cho dân giàu, nước mạnh, nói cho quan chánh, dân hiền, nói cho thương yêu giúp đỡ, đừng nói chia rẽ, đừng nói gây hố hận thù, mất đoàn kết tình thương mới đúng là lời nói ích nước lợi dân.

Nên trong Luận Trí Độ có dạy: “Lời nói thiệt chẳng cần bố thí, trì giới hay họa vấn đa văn gì cả, mà chỉ tu thiệt ngữ vẫn được phước vô lượng”. Kinh Chánh Pháp Niệm Xứ cũng có dạy: “Lắm điều nhiều lẽ thì người ta sợ tránh điều hai lưỡi đâm thọc là thứ nhứt. Người nào bỏ hết hai lưỡi, người ấy đời này hưởng được quả báo tốt, bạn bè, bà con, anh em, vợ con và tôi tớ, thảy đều gần gũi thận hòa, vững vàng chắc chắn không ai phá hoại được”.

Trong kinh Thập Thiện Nghiệp đạo, Đức Thế Tôn có dạy Vua Long Vương như vầy: “Nếu ai xa lìa được nghiệp hai lưỡi thì được 5 pháp công đức không thể phá hoại như sau:

  1. Được thân bất hoại không ai hại được
  2. Bà con bất hoại không ai phá hoại
  3. Được lòng tin bất hoại, thuận theo bản nghiệp
  4. Được pháp hạnh bất hoại, chỗ tu kiên cố
  5. Được thiện trí thức bất hoại, không dối lừa nhau”

Ấy là 5 pháp bất hoại do công đức xa lìa nghiệp nói hai lưỡi

Vì những lẽ trên, hàng Phật tử chúng ta muốn tu được trọn thiện nghiệp cần yếu nên xa lìa nghiệp nói hai lưỡi để đem công đức này hồi hướng về đạo vô thượng chánh đẳng giác sau được thành tựu 5 pháp bất hoại cao quý như Phật đã dạy, và được quyến thuộc chơn chánh thương yêu trung thực hộ trì, các ma ngoại đạo không thể quấy phá làm tổn hại chúng ta được.

  1. Lập hạnh miệng không nói lời ác

Ác khẩu là gì?

Ác khẩu là dùng miệng mắng nhiếc, chửi rủa, dùng lời thô lỗ nhục mạ người. Do lòng san giận bất mãn, bất tùng phục, khiến miệng nói những lời ác để mình đã nư giận, thỏa mãn ý ác của mình. Khi nói những lời ác ấy khiến người bị nghe đau khổ, tủi nhục, bực tức, hận thù. Chúng ta nên xét, nếu lỡ chúng ta bị ai dùng lời bất nhã mắng nhiếc, khinh chê giữa đám đông người thì chúng ta nghe cũng biết buồn, cũng biết khổ. Tuy không trả lời mắng chửi lại, chúng ta cũng bị bức rức phiền lụy, có khi buồn cả ngày, cả đêm, mang mối hận trong lòng, cho đến khi nào nói ra được mới hả dạ. Xét  ta hiểu người, do đó chúng ta không nên dùng lời thô lỗ mắng nhiếc, chửi rủa làm đau khổ ai, để khỏi chuốc lấy hận thù về mình.

Hàng Phật tử chúng ta con Phật, nhất định không nói ác khẩu, cũng không xúi người và tán thành ai nói ác khẩu. Trong kinh Báo Ân, Đức Thế Tôn có dạy bảo Ngài A Nan như vầy: “Người sanh thế gian, tai họa sanh từ miệng, nên phải giữ miệng, nên phải giữ miệng lắm hơn đề phòng lửa dữ , lửa dữ đốt cháy của thế gian, miệng dữ đốt cháy của báu bảy bậc thánh. Tất cả chúng sanh, họa từ miệng sanh ra, nên biết miệng là dao búa tự giết thân” Cho nên có câu: “Họa tùng khẩu xuất” là vậy.

Trong kinh Pháp cú Đức Phật dạy: “Nói ác, mắng chửi, kiêu mạng, khinh người. Các điều ác ấy khởi ra là ganh ghét, oán hận sanh ngay. Nói lời khiêm tốn, tôn kính, bỏ oán, nhẫn ác là ganh ghét, oán hận tự liền dứt”.

Là người sanh ở đời, búa, gươm tại trong miệng, sở dĩ giết thân do lời nói dữ, cũng không được khen kẻ ác, được kẻ ác khen lại, hai bên đều là ác, cũng không ưa dùng miệng đối nhau, về sau đôi bên đều không tốt.

Phật tử đừng nên nói lời cộc cằn, nói phải sợ quả báo, phải biết đưa lời ác đi, tai họa trả lại, dao gậy đến thân. Thốt ra thành lời nói lành như đánh chuông khánh, thân nhân không nghị luận, suốt đời an vui.

Kinh Hoa Thủ lại dạy: “Ưa thích miệng dữ, hai lối để moi móc lỗi của người, người bất thiện như vậy, không việc ác nào mà họ không dám làm”, cho nên Phật tử không thích lời nói thề ác, cũng rõ biết người đời không ưa lời ác, Chư Phật, các hàng Thánh giả không ai chịu nói lời thể ác, trái lại thích nghe lời dịu dàng, lời hiền hậu, hiếu đạo, lời pháp lành. Vậy chúng ta phải tập miệng nói mềm mỏng, dịu dàng, nói lời lành, lời thiện, lời hữu ích mới nên nói. Lời nói hiền dịu khả ái, khiến người nghe có cảm tình, khuyên dạy điều gì người ta cũng tin nghe, chịu làm theo mà còn thương mến quý trọng mình nữa là khác. Vậy nói lời hiền lành đạo đức là bí quyết thành công thánh thiện tạo nên lợi mình, lợi người một cách hữu hiệu. Cho nên trong Tứ Nhiếp Pháp của Phật có dạy: “Bố thí nhưng phải có ái ngữ mới có lợi hành, mới hòa đồng sự, bốn điều kiện, bốn nhiếp chánh, để khi chúng ta tu tập có đủ tư cách, có đủ pháp hạnh hoằng hóa chúng sanh. Nếu biết đem của cho mà lời nói không đẹp, việc làm không lành cũng khó hòa hợp”.

Vậy hàng Phật tử chúng ta cố gắng lập đức tu thân, sửa mình, sửa đức, sửa hạnh và cần sửa lời nói cho dịu hiền để dìu dắt chúng sanh cùng ta trở về đường đạo đức, chơn, thiện, mỹ. Trong Kinh Thập Thiện Nghiệp Đạo, Đức Thế Tôn dạy vua Long Vương: “Nếu ai lìa ác khẩu thì được thành tựu 8 món tịnh nghiệp như sau:

  1. Lời nói không trái pháp độ
  2. Lời nói có ích lợi
  3. Được lời nói quyết hợp lý
  4. Lời nói đẹp đẽ
  5. Lời nói thừa lãnh được
  6. Lời nói được tin dùng
  7. Lời nói không thể chê
  8. Lời nói được ưa thích”

Đó là 8 món tịnh nghiệp, nếu chúng ta tu tập, tập nói lời hiền dịu, không nói ác khẩu rồi đem hồi hướng về đạo vô thượng chánh đẳng giác, mai này thành Phật chúng ta cũng được đầy đủ phạm âm thanh tướng của Đức Như Lai không khác.

  1. Lập hạnh miệng không nói lời thêu dệt

Thế nào là lời nói thêu dệt?

Nói thêu dệt là miệng thốt ra những lời có tính cách thêu rồng vẽ phụng, tô điểm phù phiếm để lời nói của mình được người ta ưa thích hoặc kính tin theo, nhưng sự thật toàn là những lời chua ngoa, thêu dệt, không hợp lý, không đúng đắn. Động cơ thúc đẩy để phát xuất những lời nói trau chuốt này là có ác tâm giả dối để dụ dỗ cho người ta nghe theo, tin theo, say mê theo rồi dám làm những việc sai lầm tội lỗi. Chúng ta là những Phật tử tu hành chơn chánh, yêu chuộng chân lý nên khi muốn bàn nói việc gì cũng phải thận trọng tìm hiểu lẽ thật, lý chơn rồi mới nói, để có lợi ích cho bản thân ta, cho gia đình và cho mọi người trong xã hội nữa. Vì vậy chúng ta phải cẩn ngôn, cẩn hạnh, không nên nói những câu văn hoa phù phiếm, rườm rà trống rỗng, không nghĩa lý gì, không hữu ích gì, cũng không nói những lời hoa huê tình cám dỗ làm cho mê hoặc kẻ khác. Tự chúng ta không nói lời thêu dệt điêu ngoa giả dối, cũng không thể tán thành khen ai nói như vậy.

Đức Thế Tôn chúng ta dùng chơn thật ngữ thuyết ra giáo pháp để dạy dỗ chúng sanh tu hành chơn chánh, nếu là các bậc cao nhân tu hành chứng quả cũng có tác phong đạo đức theo thứ bậc của các Ngài. Do đó mới gọi là chơn lý, thuyết minh đem lại  ánh sáng soi tỏ cho muôn loài vạn vật được tiến lên. Khi Ngài thuyết pháp thì phổ xuất thiện ngôn từ, Khi Ngài giảng dạy Đà La Ni thì gọi là chơn ngôn thần chú. Lời nói của Ngài luôn luôn thật. Nên con cháu nghe theo tu hành cũng chứng quả thật chắc chắn, đem sự lợi ích cho bản thân, cho gia đình, cho xã hội mới được kết quả chân thiện mỹ.

Đã là đệ tử của Phật, chúng ta lẽ nào nói những lời vô lý, sai ngoa hay sao? Vì lẽ đó chúng ta luôn luôn nói những lời chánh đáng, đúng lý hợp tình, diễn đạt tư tưởng của mình để cho mọi người chung quanh hiểu thấu, thông cảm, biết tôn kính bậc chân tu đức hạnh và biết tôn thờ đấng Như Lai. Thế Tôn là bậc toàn giác chơn thật ngữ, là bậc đáng cho đời đời chúng sanh tưởng nhớ, cung kính để bắt chước theo nói lời chơn thật, nói lời chánh đáng, không nói lời vô lý, không nói lời giả dối thêu dệt, không nói lời văn hoa huê tình khiêu gợi và khuyên mọi người cũng tập nói như vậy để khỏi mất phẩm chất tác phong đạo đức của người Phật tử chơn chánh của Đức Thế Tôn.

Trong Kinh Thập Thiện Nghiệp Đạo, Đức Phật dạy Vua Long Vương: “Nếu ai xa lìa lời nói thêu dệt thì sẽ được thành tựu 3 pháp quyết định cao quý như sau:

  1. Quyết định được người ưa thích
  2. Quyết định có thể dùng trí như thật đáp các lời hỏi
  3. Quyết định có oai đức tối thắng với nhơn thiên không hư vọng”

Nếu chúng ta biết tu tập lìa được các lỗi ở miệng, thì chúng ta sẽ được lợi lành lớn trong khi tu hành cũng như lúc hoằng truyền chánh pháp, đem ngôn ngữ diễn đạt tư tưởng sẽ được mọi niềm tin trọn vẹn, được tôn kính trọn vẹn. Hiện tiền mọi sự thành tựu viên mãn, tốt đẹp, không bị nghi ngờ, cho đến khi thành chánh đẳng chánh giác cũng được chư Phật chứng minh thọ ký quả lành như thật, không mất.

Vì vậy hàng Phật tử đã biết lập đức tu thân sửa mình phải thận trọng dè dặt lúc phát ngôn giao thiệp.

  1. Lập hạnh không tham dục

Tham chia ra làm hai loại:

  • Tham để cầu tiến
  • Tham để mê đắm nhiễm dục lạc

          Ở đây nói đến loại tham vọng, tham mê, tham dâm. Lòng tham lam ham muốn, không ngừng chạy theo đường danh, nẻo lợi, tài sắc, dục lạc khiến suốt đời thân tâm mình chìm sâu trong hố tội lỗi, bị trói buộc trong đường tình nẻo ái, lặn hụp trong sông mê bể khổ khó bề thoát ra. Nó là động cơ tâm lý tác động gây nhiều tội ác gớm ghê không thể kể xiết. Nếu không tu, không tỉnh giác, không biết nương theo pháp lành, hành thiện thì hành động giết người, cướp của, những cuộc tình chém giết nhau cho đến nước này kéo binh sang nước nọ. Chủ động thúc giục là lòng tham vọng gian ác cao độ, lòng tham vọng này không có ngằn mé, ham muốn này mà lòng tham không đáy vì ở người tầm thường thì khởi lòng gian lận trộm cướp, ở kẻ quyền thế thì tham vọng thúc giục sang đoạt, xâm lăng, chiếm lấn thật tai hại vô cùng, cõi đời bất an, thế gian đau khổ đều gốc ở lòng tham vọng của con người mà gây nên, điều kinh loạn lạc cũng từ đó mà có. Ở đây chỉ giảng giải, phát hiện vài nét đại cương tai hại về lòng tham dục, nếu nói để biết sao kể xiết.

Chúng ta, hàng Phật tử phải có lòng từ bi, trí tuệ sáng suốt, hiểu biết lòng tham dục gây ra tội ác không nhỏ đối với muôn loài vạn vật chúng sanh. Vậy chúng ta phải phát nguyện tu hành thiện pháp, điều tức thân tâm không cho phát triển những tham muốn thấp hèn xấu xa, không để tham vọng gây ra tội lỗi, mắc phải tội báo oan khiên suốt đời. Chúng ta nên tu tập các pháp bố thí và đem từ bi thể hiện để ngăn trừ bớt lòng tham cho đến khi đoạn đứt tham muốn. Vừa mình tu tập từ bi bố thí, vừa giảng giải giúp người tu tập những hạnh lành đó để làm tốt cho thân tâm khỏi đau khổ, làm tốt gia đình khỏi phiền lụy và tiến lên giúp đỡ xã hội đồng bào ra khỏi lầm than tang tóc do hiểm họa của lòng tham vọng gian ác. Tuy vậy, về tham cầu học hỏi, tham cứu, tham khảo thì chúng ta phải tinh tiến chớ không để lùi sụt, vì có ham học cầu tiến, tham khảo, tham cứu, tham thiền nhập định là những sức mạnh tinh thần đưa con người đến tiến bộ cao đẹp trên mọi trình độ.

Đó là điều tham bổ ích cũng như cậu học trò ham học mới chóng giỏi, mới đổ đạt cao. Học nghề nghiệp phải ham thích mới giỏi tay nghề, mới đặng nhất nghệ tinh, nhất thân vinh. Nghiên cứu, tham cứu những điều hay lẽ phải, văn minh tiến bộ, đem lại ánh sáng, hành động, việc làm con người được cao đẹp. Người tu hành siêng tham thiền nhập định, sớm đặng trí tuệ chứng đắc Phật đạo, ham học kinh điển, thông suốt giáo lý, nổ lực tinh cần tu các pháp lành được trí tuệ sáng suốt, bát nhã thanh tánh mới nối dòng mạng mạch chư Phật Tổ hoằng dương chánh pháp, phổ độ quần sanh, báo Phật ân đức.

Vì vậy, tham lục dục trong đường thế gian, tội lỗi thì phải dừng lại đoạn đứt, còn tham cầu tu học, học hỏi cầu tiến thì rất cần nên. Cũng như có người đi tu, nói tôi tu không làm gì hết, không cần gì hết, không học hỏi chi hết, chỉ tu tâm được rồi. Vì chưa biết nên nói như thế, cho nên trong Qui Sơn Cảnh Sách có đoạn Tổ quở: “…Đoan nhiên cung thủ, bất quý thâm ân, sự nghiệp bất cần, công quả vô nhơn đắc tựu…” Vì lầm chấp tu là không cần làm gì hết nên chỉ ngồi lặng khoanh tay chứ không biết quý trọng thời giờ vàng ngọc, không lo nổ lực tấn tu đạo nghiệp thì làm sao đạo quả đặng viên thành. Bởi thế người Phật tử phải siêng học, siêng tu, siêng làm việc lành với khả năng sẳn có của mình. Khi thông suốt giáo lý phải tinh cần tu giới định huệ để dứt các tội. Được tâm an tịnh, trí tuệ sáng suốt, dứt hết các tham muốn, diệt trừ tham sân si thì mới mong đạo quả đắc thành.

Trong kinh Bát Đại Nhơn Giác, Đệ Nhị Giác Tri có nói:

“Đa dục vi khổ
Sanh tử bì lao
Tùng tham dục khởi
Thiểu dục vô vi
Thân tâm tự tại”

Điều giác tĩnh thứ hai Đức Phật dạy chúng ta tất cả nguyên nhân sanh ra các thứ khổ gốc của nó, nơi do lòng tham ham muốn lục dục. Muốn khỏi khổ ta phải sống ít muốn, biết đủ là vui thì không còn tạo nghiệp, chuyền nối vay trả, thân tâm thường được tự tại an vui.

Hạnh thiểu dục, tri túc thường lạc là một hạnh tuy sống thanh bần nhưng rất cao quý của chúng ta. Nhờ ít muốn, biết đủ nên sự sống ở hoàn cảnh nào chúng ta luôn luôn được an lành thoải mái, không bị trói buộc bởi vật chất, lợi danh, tài sắc nhơ bẩn. Lẽ sống được thanh cao, gia đình hạnh phúc, xã hội thương yêu, tôn quý lẫn nhau. Người Phật tử có an bần, lạc đạo, cột trụ vững chắc là nhờ còn cộng sự xã hội trong các ban ngành, hạnh lành này làm cho tâm ta, hạnh đức ta được trong sạch như băng tuyết. Đoạn diệt tham dục để sống thiểu dục tri túc là hạnh đức tốt, rất cao quý để giữ tâm tính chúng ta được nguyên trinh mãi mãi. Nên Phật tử chúng ta phải cố gắng tu tập, lập hạnh lành này, và khuyến khích mọi người sống tu tập hạnh tốt ấy để giữ được tâm tánh cao khiết của chính ta, đem nếp sống thanh bạch cho gia đình, đem hòa vui an lạc cho xã hội. Lìa bỏ tham dục để sống ít muốn biết đủ là vui, là một công đức cao cả nên Đức Thế Tôn có dạy vua Long Vương trong kinh Thập Thiện Nghiệp đạo như vầy: “Lại nữa Long Vương: Nếu ai xa lìa tham dục thì được thành tựu năm món tự tại an vui như sau:

  1. Ba nghiệp tự tại, các căn đầy đủ
  2. Của cải đầy đủ, oán tặc không cướp đoạt
  3. Phước đức tự tại, tùy lòng yêu muốn vật dụng đều đủ
  4. Vương vị tự tại, đồ vật quý lạ đều được dâng cúng

5. Những vật đã được thù thắng gấp trăm lần lòng mong cầu do nhân lành đời trước không bỏn sẻn, tham lam, ganh ghét”.

Đây là năm món tự tại an lành, nếu các hàng Phật tử tu tập hạnh lành này, rồi đem hồi hướng về đạo vô thượng chánh đẳng chánh giác, sau này thành Phật đặc biệt được ba cõi pháp giới chúng sanh thảy điều quy kính cúng dường vô lượng vô biên.

Thật vậy, là một pháp hạnh cao quý đáng tôn kính, đáng cho chúng ta thực hành làm theo.

  1. Lập hạnh không sân giận

Lòng sâu hận từ đâu đến? Lòng sâu hận là thế nào?

Lòng sâu hận, thù hằn nỗi lên do tai nghe những điều sĩ nhục, mắng chưỡi thô bỉ, va chạm đến tự ái của mình, hoặc mắt ngó thấy những điều làm trái nghịch ý mình muốn, rồi tìm lòng sanh oán giận, thốt ra những lời nói không êm ái, hành động không thể hiện nhẹ nhàng, đoan chánh được, sân là ngọn lửa dữ thiêu hết những đức lành, tánh tốt của mình, cho nên người xưa nói: “Nhứt tinh chi hỏa, nung thiên vạn khoảnh chi sơn, bán cú chi ngôn, tản bình sanh chi đức” có nghĩa là một điểm lửa sân trong lòng nổi lên đốt hết đám rừng công đức, và chỉ nửa lời nói không lành đã làm hao tổn công đức một đời người chúng ta đã tạo được. Cho nên lửa sân rất là tội lỗi, người nuôi tánh sân cũng như nuôi rắn độc trong nhà. Sớm muộn gì cũng bị thiệt hại. Lửa sân con người không chế ngự được, có thể gặp dịp thiêu đốt cả thế gian. Vì con người nổi sân lên thì tất cả điều lành không còn nhớ, tính hung ác nổi lên, tai họa nguy hiểm vô cùng, lúc đó không còn tri giác tánh lành chi cả, và khi sân hận, oán ghét, thù hằn nổi lên rồi thì không tội ác nào mà chẳng dám làm. Đối với họ, công lý, công bình, lẽ phải không còn nghĩa lý gì nữa.

Người Phật tử tu hành theo đạo Phật thể hiện đức tánh từ bi vị tha của Chư Phật, Bồ tát, tuy chúng ta chưa được như các Ngài nhưng cũng phải cố gắng tu tập các pháp kìm hãm lòng sân, tánh nóng như: Đề phòng hỏa hoạn, vì một phút sơ hở có thể gây tai hại không lường. Muốn vậy, chúng ta phải nỗ lực tu tập lòng từ bi, nhẫn nhục để diệt lòng sân hận, là lửa sân hiểm họa vô cùng. Chúng ta khuyến khích mọi người cùng đồng tu hạnh lành từ bi lân mẫn diệt lửa tham sân si. Chỉ có nước từ bi Cam lộ vị mới dập tắt được ngọn lửa sân này. Từ bi là biển nước tình thương tràn trề mát mẻ nên khiến dập tắt ngọn lửa tham sân không thể nhóm dậy được, biển nước từ bi, suối mát cam lộ này là tình thương bao la trùm đến đâu thì mầm lửa sân hận tắt ngụm đến đấy.

Trong kinh Pháp có Đức Phật dạy: “Phải lấy lòng từ bi diệt hận thù thì hận thù mới dứt!!! Nước từ bi là tình thương tắm mát mọi người đang nóng bức vì lửa hận thù nhen nhúm trong lòng, trên thế gian hoàn vũ sẽ mát rượi khi nào trong lòng mọi người có bầu cam lộ nhiệt tâm, có nước từ bi hỉ xã. Từ bi là tượng trưng cho hoa tươi, bướm đẹp, là gió xuân, là ánh sáng bình minh, là tất cả hạnh phúc an lành của con người”.

Để thể hiện làm đẹp, đem nguồn lợi ích tô điểm cho thế gian, người Phật tử tiêu biểu chúng ta nên lập hạnh từ bi nhẫn nhục và khuyến khích tất cả mọi người nên tu tập hạnh lành này.

Muốn diệt lòng sân hận, giận dữ, ta nên tu tập 5 pháp quán xét theo Luận Nhiếp Đại Thừa như vầy:

  1. Quán tất cả chúng sanh từ nhiều kiếp đến nay đối với ta đã có ân huệ
  2. Quán tất cả chúng sanh tiêu diệt từng mỗi niệm
  3. Quán có pháp mà không có chúng sanh thì đâu có năng tốn và sở tốn
  4. Quán tất cả chúng sanh đều đã có khổ rồi sao ta nỡ làm cho khổ thêm
  5. Quán tất cả chúng sanh là con ruột của mình, ta nỡ nào sanh tâm làm tổn hại được.

Nếu siêng tu tập quán tưởng 5 pháp quán này, nơi tâm mình như đeo nhẫn ngọc quí báu trong mình thì được thành tựu hạnh lành cao cả cũng như chư Bồ tát, Phật vậy.

Trong kinh Thập Thiện Nghiệp Đạo, Đức Thế Tôn dạy tiếp vua Long Vương về công đức xa lìa sân hận như vầy: “Nếu ai xa lìa sân hận thì được 8 món tâm pháp hỉ duyệt:

  1. Không lòng tổn não
  2. Tánh không còn sân hận
  3. Không lòng kiện tụng
  4. Lòng luôn nhu hèn, ngay thật
  5. Được từ tâm của bậc Thánh
  6. Sẳn lòng từ làm lợi ích an lạc cho chúng sanh
  7. Thân tướng đẹp đẽ, tất cả chúng sanh đều tôn kính
  8. Do sự hòa nhẫn mau sanh về cõi Phạm Thiên”

Đó là 8 điều tâm pháp hí duyệt cao quí, nếu chúng ta tu tập rồi đem hồi hướng về đạo vô thượng chánh đẳng chánh giác, sau khi thành Phật, chúng ta sẽ được tâm vô ngại của Phật, người xem, nghe không chán. Việc lợi ích như thế, công đức không thể nghỉ bàn, cho nên chúng ta nên nỗ lực tinh tấn tu hạnh diệt lòng sân hận

  1. Lập hạnh dứt trừ si mê tà kiến

Si mê tà kiến là gì?

Si mê chia ra làm hai phần: si mê đần độn và tà kiến.

Người mắc bệnh si mê đần độn là người không có trí phân biệt lẽ phải chẳng biết hay dỡ thế nào. Khi thích muốn điều gì thì cứ ù ù cạc cạc làm theo ham muốn dục vọng của mình, không cần học hỏi để hiểu biết hoặc nhờ ai chỉ bảo, mặc dù việc đó mình chưa từng biết, cứ bướng bỉnh mà làm rồi tự gây tội lỗi cho mình. Bởi tánh si mê đần độn nên dễ bị sai xử làm điều ác, những điều xấu xa mà tự mình không hay biết. Vì tánh đần độn si mê nên hay làm tội, hay gây tội ác để bị sa đọa vào hố thẳm, tức trái oan khiên muôn đời. Những hạng người này sống giữa bạch nhựt thanh thiên, nhưng cũng như người đi đêm mù mịt. Đây là loại đần độn si mê, khó cỡi mở, tiến hóa để trở nên người cao đẹp.

Người tà kiến lại còn khó hơn nữa, tuy làm việc gì có suy xét, có nhận định, song suy xét nhận định sai lầm, không đúng chánh pháp chơn lý, chỉ lấy mấy cái biết, cái hiểu của mình rồi chấp chặt chỗ đó làm sở đắc. Do sự chấp chặt chỗ sai lầm của mình là đúng, không cần noi gương trước của bậc trí, cũng chẳng tin cái hay của người sau, nên cả đời chỉ quay cuồng trong cái lẩn quẩn, rốt cuộc rồi cũng chẳng nên việc gì tốt đẹp cho bản thân, cho gia đình và cho xã hội. Những người mà đã có thân kiến sai lầm, họ còn lôi kéo những người khác cùng theo con đường sai lầm quấy ác của họ, chẳng khác người mù dẫn cả đoàn mù, sớm muộn rồi cũng rơi xuống hố thẳm. Người mang nặng tà kiến như kẻ đeo căp kiếng màu, chỉ nhìn thế gian theo một màu với mắt kiếng mà họ đeo mà thôi. Khi đã lầm chấp các phép theo tà kiến của mình thì dù ai nói thế nào họ cũng không tin, không nghe theo dầu thiệt hại đau khổ vô cùng. Khốn đốn hoạn nạn họ cũng chấp chịu, chớ không từ bỏ, trừ khi nào họ gỡ được cặp mắt kiếng màu thì mới hết dược. Bịnh tà kiến khiến người tự chuốc lấy họa, lại khiến người gây họa theo. Thí như họ chủ trương không có tội phước, bản thân họ không sợ tội, không làm phước lại còn dạy người không sợ tội, không làm phước chi cả, cho nên bịnh si mê tà kiến khiến mình cùng người mắc phải tội lỗi ngập trời không sao kể xiết.

Để chỉ con đường chơn chánh, đem ánh sáng trí huệ, Đức Phật dạy chúng ta tu minh sáng tuệ để có trí tuệ rõ biết nhận thức đúng sai mà làm theo con đường chánh đạo để đưa con người tiến lên thiện lành, giải thoát an vui. Trong tứ y pháp Phật có dạy 4 điều:

1. Y pháp bất y nhân: Có nghĩa là chúng ta giác ngộ thì phải nương theo pháp của Phật mà tu hành, nếu người dạy chúng ta đúng như pháp Phật ta mới nghe, chớ không được nghe theo ý người khi chưa đắc đạo.

2. Y nghĩa bất y ngữ: Có nghĩa là những bậc thầy dạy dỗ dùng biện tài không lập lại y ngữ nhưng vần nghĩa lý đúng đắn như lời Phật dạy thì mới tin nghe theo được.

3. Y trí bất y thức: Có nghĩa là phải nương theo trí tuệ hiểu biết và chứng đắc, chớ không được nghe theo ý biết của mình trong vòng phàm phu thô thiển.

4. Y liễu nghĩa kinh, Bất y bất liễu nghĩa kinh: Nghĩa là nghe lời kinh sâu rộng phải rõ nghĩa thực tướng các pháp rồi mới hành theo, chớ không được hiểu thô thiển cạn cợt ý Tổ, lời Phật rồi làm sai lầm, chuyển ngữ sai lầm sẽ bị sa đọa A Tỳ địa ngục. Cũng như vị tu sĩ vì hiểu sai chuyển ngữ phải thành chồn 500 kiếp thật là oan uổng.

Vậy chúng ta là hàng Phật tử, muốn dứt hết gốc si tà kiến, chúng ta phải học tập trí tuệ để hiểu biết một cách sáng suốt. Mới mong ra khỏi hai loại si mê nguy hiểm ấy được. Vì sao? Trí tuệ cũng như mặt trời sáng quét sạch mọi tăm tối. Trí tuệ cũng là chiếc búa thép bén chặt ngã đám rừng si mê tội lỗi. Trí tuệ còn là thanh kiếm thần dẹp sạch bọn quân ma tà kiến. Muốn được vậy, chúng ta phải học hỏi chánh pháp, tu tập thiền định, có công năng phát huy ánh sáng thần lực. Có mắt sáng biết, có ánh sáng mạnh mẽ, có oai thần lực, chúng ta mới tự mình ra khỏi sa đọa, mê lầm tăm tối. Nếu ai muốn thoát khỏi lưới si mê thì phải cố gắng chuyên cần học tập trí tuệ. Muốn đem lại ánh sáng quang minh cho thế gian thì khuyên tất cả chúng sanh nên cùng học tập trí tuệ.

Để thể hiện sáng đẹp, đem lợi lành cho chúng sanh, đưa đường dẫn lối cho chúng sanh từ bờ mê về bến giác, chúng ta phải thực tu tập trí tuệ để được giáo huệ soi đường chúng sanh, để đưa mọi người ra khỏi chốn u đồ tăm tối.

Cho nên công năng tu tập diệt trừ si mê tà kiến là một công đức rất lớn, đem lợi lành cho chúng sanh vô lượng, nên Trong kinh Thập Thiện Nghiệp Đạo, Đức Thế Tôn dạy vua Long Vương như vầy: “Nếu ai xa lìa si mê tà kiến thì sẽ được thành tựu 10 pháp công đức như sau:

  1. Được ý vui chơn thiện, bầu bạn chơn thiện
  2. Thân tín nhơn giả, thà bỏ thân mạng trọn chẳng làm ác
  3. Chỉ quy y Phật, không quy y các thiên thần
  4. Trực tâm chánh kiến, xa hẳn các sự ngờ vực kiết hung
  5. Thường sanh nhơn thiên, không sa vào đường dữ
  6. Vô luợng phước huệ lần lượt tăng thêm nhiều
  7. Xa hẳn đường tà, tu hành chánh đạo
  8. Chẳng khởi thân kiến, bỏ ác nghiệp
  9. Được kiến giải vô ngại
  10. Hằng được an lành, chẳng bị các tai nạn

Nếu chúng ta tu tập hạnh lành này rồi đem hồi hướng về đạo vô thượng chánh đẳng chánh giác, sau khi thành Phật, chúng ta sẽ mau chứng tất cả Phật pháp, thành tựu thần thông, tự tại, vô ngại, an vui.

BÀI VIẾT MỚI

  • Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát
  • Học Viện Phật Giáo VN Tại Tp.HCM Xét Tuyển Thẳng Thí Sinh Có Bằng Trung Cấp
  • Tính Không Là Gì? “Sắc Sắc Không Không” Nghĩa Là Như Thế Nào?
  • Tịnh Độ Chánh Tính - Hội Thảo Khoa Học Chánh Trí Mai Thọ Truyền Với Hội Phật Học Nam Việt
  • Hội thảo khoa học “Cư sĩ Chánh Trí – Mai Thọ Truyền với Hội Phật học Nam Việt”

Danh sách tin tức

  • Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát
  • Học Viện Phật Giáo VN Tại Tp.HCM Xét Tuyển Thẳng Thí Sinh Có Bằng Trung Cấp
  • Tính Không Là Gì? “Sắc Sắc Không Không” Nghĩa Là Như Thế Nào?
  • Tịnh Độ Chánh Tính - Hội Thảo Khoa Học Chánh Trí Mai Thọ Truyền Với Hội Phật Học Nam Việt
  • Hội thảo khoa học “Cư sĩ Chánh Trí – Mai Thọ Truyền với Hội Phật học Nam Việt”
  • Tập học Phật Pháp của Phật tử Bát Quan Trai (bài 1)
  • Phật Pháp Vấn Đáp (tập 3)
  • Phật Pháp Vấn Đáp (tập 1)
  • Giác Quang Thi Tập (tập 2)
  • Giác Quang Thi Tập (tập 1)
    HT Thượng Bửu hạ Đức, HT Thượng Thiện hạ Phước
    NT Thích nữ Thượng Huệ hạ Giác, HT Thích Giác Quang
    Cung Thỉnh Xá Lợi Đức Tôn
    Cung Thỉnh Xá Lợi Đức Tôn Sư (32)
    Cái Đẹp Của Người Tu

CHƯ TÔN ĐỨC NON BỒNG

  • Hành trạng Đức Sư Ông thượng Bửu hạ Đức
    Hành trạng Đức Sư Ông thượng Bửu hạ Đức

    Hành trạng của Đức Sư Ông thượng Bửu hạ Đức chứng minh đạo sư Liên Tông Tịnh Độ Non Bồng (1880-1974)  

    Chi tiết
  • Đức Tôn Sư Hòa Thượng Thượng Thiện Hạ Phước
    Đức Tôn Sư Hòa Thượng Thượng Thiện Hạ Phước

    Đức Tôn Sư Hòa Thượng thượng THIỆN hạ PHƯỚC húy NHỰT Ý, dòng LÂM TẾ thứ 41, Sáng lập và là Tông chủ môn phong pháp phái Liên Tông Tịnh Độ Non Bồng.

    Chi tiết
  • Tiểu Sử Đức Hòa Thượng Tôn Sư thượng Thiện hạ Phước
    Tiểu Sử Đức Hòa Thượng Tôn Sư thượng Thiện hạ Phước

    Chi tiết
  • Hòa Thượng thượng Thiện hạ Thành
    Hòa Thượng thượng Thiện hạ Thành

    Chi tiết
  • Tiểu sử Hòa Thượng Thích Thiện Hồng
    Tiểu sử Hòa Thượng Thích Thiện Hồng

    Chi tiết
  • Kỷ Yếu Tang Lễ Hòa Thượng Thích Vạn Hùng
    Kỷ Yếu Tang Lễ Hòa Thượng Thích Vạn Hùng

    Chi tiết
  • Tiểu Sử Của Cố Hòa Thượng Thích Thiện Tài Viện Chủ Chùa Linh Bửu Quận 8, Tp Hồ Chí Minh
    Tiểu Sử Của Cố Hòa Thượng Thích Thiện Tài Viện Chủ Chùa Linh Bửu Quận 8, Tp Hồ Chí Minh

    Chi tiết
  • Ni Trưởng Thích nữ Diệu Hòa
    Ni Trưởng Thích nữ Diệu Hòa

    Tiểu sử Ni Trưởng Thích Nữ Diệu Hòa húy Trung Viên trụ trì Tổ Đình Linh Sơn

    Chi tiết
  • Ni Trưởng Thích Nữ Diệu Giác
    Ni Trưởng Thích Nữ Diệu Giác

    Chi tiết
  • Tiếu Sử Ni sư Thích Nữ Diệu Huệ, Trung Bửu Tự.
    Tiếu Sử Ni sư Thích Nữ Diệu Huệ, Trung Bửu Tự.

    Chi tiết
  • Xem tất cả >>

CÁC NGÔI TỰ VIỆN NON BỒNG

  • Tổ Đình Linh Sơn - Núi Dinh
    Tổ Đình Linh Sơn - Núi Dinh

    Tổ Đình Linh Sơn nằm bên sườn Tây núi Dinh, ngọn núi này nằm trong dải Bao Quan. Trên bản đồ địa lý của tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu thì đỉnh Bao Quan chỉ cách Thị Xã Bà Rịa khoảng 10 km đường chim bay và nằm về phía Tây Nam của Thị xã.

    Chi tiết
  • Tổ Đình Quan Âm Tu Viện
    Tổ Đình Quan Âm Tu Viện

    Quan Âm tu viện tọa lạc tại đường Nguyễn Ái Quốc, khu phố 3, phường Bửu Hòa, Tp.Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai. Tu viện được Trung tâm Bảo tồn Di sản Văn Hóa tôn giáo công nhận là di sản văn hóa Phật giáo tỉnh Đồng Nai ngày 15/3/2016, được Ban Tôn giáo Chính phủ ra quyết định tặng Giấy khen “Có thành tích trong công tác từ thiện xã hội và góp phần bảo vệ văn hóa tôn giáo” ký ngày 02/12/2016.

    Chi tiết
  • Tịnh xá Bửu Sơn, Định Quán, Tỉnh Đồng Nai, cũng là cơ sở bảo trợ Hoa Sen Trắng.
    Tịnh xá Bửu Sơn, Định Quán, Tỉnh Đồng Nai, cũng là cơ sở bảo trợ Hoa Sen Trắng.

    Chi tiết
  • DS Tự Viện trong Tông phong Liên Tông Tịnh Độ Non Bồng
    DS Tự Viện trong Tông phong Liên Tông Tịnh Độ Non Bồng

    Chi tiết
  • Xem tất cả >>

LỄ ĐẠI TƯỜNG CỐ NI TRƯỞNG TN HUỆ GIÁC

CÁC WEBSITE PHẬT GIÁO

  1. Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam
  2. Báo Giác Ngộ 
  3. Ban Tôn Giáo Chính Phủ
  4. Đặc san Hoa Đàm
  5. Phật Giáo Tp. Biên Hoa
  6. Phật sự online
  7. Đạo Phật Ngày Nay

    Không có video thuộc chủ đề này.
Mừng Xuân Di Lặc 2019
Banner header
Kỷ Niệm Lễ Xuất Gia Đức Thầy (2019)
Phát quà Tại Tổ Đình Thành An Tự
Phát quà từ thiện
Phát quà cho đồng bào ở Tây Bắc
Trồng cây
Phát quà từ thiện

Footer

QUAN ÂM TU VIỆN
K2/77 Nguyễn Ái Quốc, Kp3, P. Bửu Hòa, Tp. Biên Hòa
Điện thoại: 0933045996 - 0908192876
E-mail: lientongtinhdo@gmail.com