Phật Giáo Việt Nam: Các Vấn Đề Về Tôn Giáo Sinh Thái Và Bảo Vệ Môi Trường - Tham Luận Tại Hội Thảo VESAK 2019
PHẬT GIÁO VIỆT NAM: CÁC VẤN ĐỀ VỀ TÔN GIÁO SINH THÁI
VÀ BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG
I. Dẫn Nhập
Chúng ta bước vào thế kỷ 21 với một cảm giác khiêm nhường mới về những gì con người đã làm được cũng như với một cảm giác hy vọng mới mẻ về những gì chúng ta vẫn có thể đạt được. Bảo vệ môi trường sống không phải là vấn đề mới được đặt ra, nhưng nó luôn là vấn đề cấp thiết cho toàn nhân loại. Theo tinh thần nhân quả, những hậu quả, những di chứng của sự tàn phá môi trường ở quá khứ đã đưa cuộc sống con người đi đến ngõ cụt. Những trận động đất, sóng thần[1], lốc xoáy, bão lũ, liên tục xảy ra do nguyên nhân trái đất nóng lên đang diễn ra từng ngày, từng giờ. Tất cả đều có sự tác động của bàn tay con người bằng các hoạt động khai thác quá mức[2], triệt để đã để lại những hậu quả khôn lường cho nhân loại ngày nay phải chịu đựng. Sự sống và cái chết giữa con người với sự phẫn nộ của tự nhiên đã đưa đến thiệt hại về người, kinh tế và xã hội; Đặc biệt là những con số đáng báo động: “Việt Nam là một trong năm nước đã và đang chịu ảnh hưởng nặng nề nhất về biến đổi khí hậu và nước biển dâng. Trung bình, mỗi năm có 457 người bị thương vong, thiệt hại bình quân hằng năm là 1,9 tỷ USD, tương đương 1,3% GDP của cả nước. Vì vậy, nếu không quan tâm đúng mức công tác bảo vệ môi trường, Việt Nam sẽ phải đối mặt với những thách thức lớn về tình trạng ô nhiễm, suy thoái môi trường.”[3]
Từ “ô nhiễm” được “Nhóm Hội thẩm về Ô nhiễm môi trường thuộc Ủy ban Cố vấn về Khoa học của Tổng thống (Ấn Độ) định nghĩa trong bảng báo cáo “Phục hồi đặc tính của môi trường” như sau:
“Ô nhiễm môi trường là sự thay đổi bất lợi của môi trường, hoàn toàn hay một phần lớn được xem như phó phẩm của các hành động do con người gây ra qua các hậu quả trực tiếp hay gián tiếp trong các khuôn mẫu năng lượng, cấp bậc phóng xạ, sự cấu tạo hóa học hay vật lý và sức tăng trưởng phong phú của các sinh vật. Những thay đổi này có thể ảnh hưởng trực tiếp hay gián tiếp trong các khuôn mẫu năng lượng, các cấp bậc phóng xạ, sự cấu tạo hóa học hay vật lý và sức tăng trưởng phong phú của các sinh vật. Những thay đổi này có thể ảnh hưởng trực tiếp đến con người, hoặc qua sự cung cấp nước và các sản phẩm nông nghiệp hay sinh học khác, hoặc các tài sản vật chất hay các cơ hội giải trí, thích thú thiên nhiên.
Về vấn đề “Năng lượng hạt nhân. Cứu độ hay Trừng phạt” E.F. Schumaker đã viết trong quyển sách của ông nhan đề “Nhỏ là Đẹp”: “Trong tất cả các sự thay đổi do con người đưa vào ngôi nhà thiên nhiên, thì sự phân tán hạt nhân (để tạo năng lượng hay gây nổ) ở quy mô lớn chắc chắn là sự kiện nguy hiểm và sâu xa nhất. Kết quả là sự bức xạnăng lượng để tạo i-on hóa đã trở thành tác nhân gây ô nhiễm nghiêm trọng nhất đối với môi trường và là mối đe dọa lớn nhất đối với sự sinh tồn của con người trên quả đất. Không gì đáng ngạc nhiên khi bom hạt nhân đã thu hút sự chú ý của con người thông thường, mặc dù ít nhất cũng còn cơ may là bom hạt nhân có thể chẳng bao giờ được sử dụng nữa. Mối nguy hiểm đối với nhân loại do cái được gọi là “sử dụng năng lượng hạt nhân vì hòa bình” có thể còn lớn hơn nhiều.
Với nhiều thành quả thiết thực, trong thời gian qua, Giáo hội Phật giáo Việt Nam đóng góp cho dân tộc trên nhiều phương diện như bảo tồn phát triển các giá trị truyền thống, giữ gìn các văn hóa cổ như các bản in, ngôn ngữ hay các vấn đề về tinh thần hòa bình bất bạo động, trồng cây gây rừng, bảo vệ môi trường,…Hiện tại, không thể không nhắc đến việc trồng rừng của các cơ sở tự viện góp phần gìn giữ môi trường và cân bằng hệ sinh thái, phát động phong trào ý thức bảo vệ môi trường trong cộng đồng. Với Việt Nam, đây là vấn đề được quan tâm hàng đầu hiện nay.
Cộng đồng Phật giáo thế giới nói chung và Giáo Hội Phật giáo Việt Nam nói riêng đã và đang thực hiện nhiệm vụ của chính mình[4] trong việc giảm thiểu đến mức thấp nhất trong việc nóng lên toàn cầu và bảo vệ môi trường sống, bằng cách thể hiện sống động các ngôi tùng lâm tự viện đều gắn liền với môi trường xanh hoặc một khoảng rừng thiền thật lớn, có những nơi hiện đang trồng và bảo vệ từ vài trăm ha đến hơn 1000 ha. Đặc biệt, Phật giáo Việt Nam còn tham dự và cam kết thực hiện chương trình phối hợp hành động về bảo vệ môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu giai đoạn 2015-2020 giữa Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Bộ Tài nguyên và Môi trường cùng lãnh đạo 14 tổ chức tôn giáo trong nước.
II. Mối quan hệ giữa Tôn giáo và sinh thái
Đức Phật luôn chủ trương đời sống phạm hạnh của các vị Tỳ kheo là sống gần với thiên nhiên và môi trường xanh. Những khóm rừng, những ngọn núi hay dòng sông đều lưu dấu chân của Thế Tôn để đem chánh pháp bất tử đến cho nhân thiên. Thực tế, khi đức Phật còn tại thế, bảo vệ môi trường sinh thái chưa trở thành vấn đề như ngày nay, thế nhưng đức Phật với trí tuệ sáng suốt và lòng từ bi cứu khổ của Ngài, Ngài đã là bậc vĩ nhân hướng dẫn con người thực thi nếp sống hài hòa với thiên nhiên, bảo vệ môi sinh là bảo vệ sự sống con người[5]. Cụ thể, với trách nhiệm của bậc Đạo sư, Ngài đã chủ động tạo ra một môi trường tu học thích hợp cho những đệ tử xuất gia và tại gia của Ngài, đức Phật đã chủ động tìm cách xây dựng cho mình và cho hội chúng Tăng già một nếp sống hòa hài với thiên nhiên.[6] Thái độ sống mà đức Phật giảng dạy cho mọi người là luôn ý thức sống hài hòa với thiên nhiên. Muốn hài hòa với thiên nhiên, thì con người phải tôn trọng sự sống ngay cả loài vật và cỏ cây, một thái độ trên tinh thần duyên khởi. Đức Phật dạy không nên đổ đồ ăn dư thừa trên cỏ xanh và trong nước có côn trùng, sợ làm hại cỏ và côn trùng.[7] Ngài dạy các đệ tử xuất gia phải dùng vải lọc nước để ngăn chặn giết hại các sinh vật. Trong thời gian an cư ba tháng mùa mưa, đức Phật khuyên các Tỳ-khưu không nên đi ra ngoài vì sợ dẫm đạp trên cỏ cây hoặc các loài côn trùng nẩy nở rất nhiều trên đất và trong không khí ẩm ướt. Ngài xác nhận không sát sanh là bố thí không sợ hãi, bố thí không hận thù, bố thí không làm hại: “ Vị Thánh đệ tử từ bỏ sát sanh, đem không sợ hãi cho vô lượng chúng sanh”.[8]
Nguyên Tổng thư ký Liên Hợp quốc Ban Kimoon đã từng tuyên bố rằng, các cộng đồng tôn giáo là yếu tố quan trọng cho những nỗ lực toàn cầu trong việc giải quyết thách thức về khí hậu. Tôn giáo nhắc nhở chúng ta về những khía cạnh đạo đức của biến đổi khí hậu và về nghĩa vụ chăm sóc môi trường mong manh của trái đất và mối quan tâm trợ giúp đối với các nước láng giềng đang bị thảm họa của thiên nhiên. Stevent C. Rockefeller đặt vấn đề rằng, cần huy động người đứng đầu các tôn giáo lớn trên thế giới sử dụng các nguồn lực tâm linh để ứng phó khi trái đất đang phải đối mặt với những đe dọa lớn chưa từng có hiện nay. Trong khi đó, Llewellyn Vaughan cho rằng: Sinh thái học tâm linh có thể giúp chữa lành “cơ thể” trái đất đang bị hư hỏng nặng nề do sự khai thác quá mức[9] của con người.
Trong Bài nói chuyện của Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 14 tại Hội Nghị Thượng đỉnh về việc bảo vệ môi trường và phát triển[10] do Liên Hợp Quốc tổ chức: “Sự cần thiết cho một ý thức và trách nhiệm chung có ảnh hưởng đến mọi phương diện của đời sống hiện tại. Ngày nay, những sự kiện bất an xảy ra ở một nơi nào đó trên thế giới, nhưng cuối cùng rồi nó sẽ bị ảnh hưởng đến toàn hành tinh. Do vậy, chúng ta phải giải quyết những vấn đề nghiêm trọng này từ ngay địa phương của mình và hãy quan tâm đến chúng từ lúc chúng chưa phát khởi. Thật vô ích, nếu chúng ta kêu gọi dựng lên những hàng rào ý thức cảnh giác cũng như sự phân biệt giữa các chủng tộc với ngỏ hầu không bị ảnh hưởng và liên lụy đến những tiếng vang của sự phá hủy của chiến tranh và sự ô nhiễm của môi trường. Chúng ta hãy hưởng ứng lời kêu gọi của Liên Hợp Quốc đặc trách về bảo vệ môi trường và phát triển là chúng ta phải quan tâm nhiều hơn nữa đến các quốc gia nghèo đói và bị mối đe dọa của môi trường sống. Quả thật đây là một hình thức rất độc đáo mà chúng ta phải thảo luận kỹ trong hội nghị này.
Hòa Thượng Thích Nhất Hạnh: “Chỉ khi nào chúng ta thực sự quay về yêu thương Đất Mẹ thì những hành động của ta mới toát lên lòng tôn kính và trí tuệ đến từ sự tương liên của mình với Đất Mẹ. Nhưng nhiều người chúng ta đã trở nên xa lạ với Mẹ Đất. Chúng ta đã lạc lối, bị cô lập, và cô đơn. Chúng ta làm lụng quá vất vả, cuộc sống của ta quá bộn bề, chúng ta căng thẳng và mất tập trung, đánh mất chính mình trong vòng xoáy của sự tiêu xài. Nhưng Đất Mẹ thì lúc nào cũng ở đó vì chúng ta, ban cho ta mọi thứ cần thiết để nuôi dưỡng và trị liệu: hạt bắp nhiệm màu, dòng suối trong lành, cánh rừng thơm ngát, đỉnh núi phủ tuyết hùng vĩ, và tiếng chim hót yêu đời lúc rạng đông.”Đó là quan niệm rất cụ thể về sự tác động của con người tới môi trường sinh thái, đặc biệt là môi trường đất.
Theo HT.Thích Bảo Nghiêm, Phó Chủ tịch HĐTS, tại cuộc Thảo luận của đoàn Hà Nội trong chiều 7-6 - 2017 về dự thảo Luật Bảo vệ và phát triển rừng (sửa đổi) “Giáo lý của đạo Phật nghiêm cấm việc chặt cây. Chặt cây cũng bị coi là sát sinh như giết hại con người. Lời di chúc của Đức Phật trước khi rời cõi đời này là không được chặt cây cối, phá hoại núi rừng. Cây cối cho ta sự sống, che mát cho ta nên cấm tuyệt đối việc chặt cây. Phật giáo rất yêu thiên nhiên, bảo vệ rừng, bảo vệ môi trường.
Chúng tôi rất mong mọi người đều bảo vệ môi trường, trái đất, bảo vệ cho cuộc sống, bầu khí quyển bằng việc phát động trồng cây. Mỗi người trồng một cây, thì các khu đô thị, cao ốc đều phủ màu xanh của cây cối. Rừng không phải rừng đặc dụng mà rừng còn có thể trồng ngay trong các khu đô thị, khu đân cư".
Theo Thượng tọa Thích Đức Thiện, Tổng Thư ký Hội đồng Trị sự Trung ương Giáo hội Phật giáo Việt Nam cho biết: “Giáo lý Phật giáo luôn chú trọng đến vấn đề bảo vệ môi trường. Chúng ta luôn tích cực hưởng ứng lời kêu gọi của Liên hợp quốc về thực hiện mục tiêu phát triển thiên niên kỷ “Đảm bảo bền vững về môi trường” (mục tiêu thứ 7), thực thi cam kết tại Hội nghị Thượng đỉnh thế giới về môi trường ở Paris (Pháp), cộng đồng Phật giáo thế giới đã cùng chung tay hành động để giải quyết vấn đề biến đổi khí hậu.”
Alister E. McGrath phản đối cách nhìn truyền thống đầy sai sót khi coi khoa học và tôn giáo là hai con đường khác nhau khi tìm hiểu thế giới. Cần thay đổi ngay lập tức trong nhận thức về vấn đề này, các nhà khoa học thường đả phá, phủ định tôn giáo. Tuy nhiên, trên thực tế các tôn giáo luôn coi trọng và bảo vệ môi trường. Nếu chỉ xác định thế giới trong các giới hạn khoa học cụ thể và coi nó như tổng thể các nguyên tử và phân tử bị chi phối bởi các định luật không thể thay đổi, chúng ta sẽ mất khả năng hiểu rõ về những bí ẩn của thiên nhiên. Hãy nhìn nhận thế giới như một “tuyệt tác” của tạo hóa để đánh thức ý thức của con người trong việc bảo vệ thiên nhiên, nâng niu nó như nâng niu món quà của tạo hóa[11].
Tôn giáo thế giới đã bước vào “giai đoạn sinh thái” , tức là mối quan tâm về môi trường diễn ra cùng với sự tập trung tôn giáo truyền thống về đạo đức, nghi lễ, giúp đỡ người nghèo và giảng dạy, nghiên cứu các lời của Đức Phật về môi trường, về sinh thái, về rừng. Một đại biểu tiên phong, tích cực nhất của phong trào là nhà thơ Mỹ Gany Snyder (1930), từng đọc rất nhiều trước tác của các học giả Phật giáo nổi tiếng như D. T. Suzuki và Alan Watts, cho rằng “Cỏ cây và động vật đều là người (people)”, chúng phải có nhân quyền giống như con người, gọi là “quyền của động vật”, “quyền của cỏ cây”[12]….
Trong một nghiên cứu, Hubertus Mynarek chỉ ra: Trên phương diện từ nguyên, Ecology (Ökologie) ngay từ đầu đã có liên quan đến tôn giáo (Religion). Bởi lẽ, từ căn Religio của từ Religion (tôn giáo), có nghĩa là Rück-Bindung an das Ganze (quay lại và kết hợp với chỉnh thể), nhưng sinh thái học (Ecology, Ökologie) trên ý nghĩa về mặt từ nguyên là Oeconomie des Natur-Ganzen (kinh doanh quan tâm đến chỉnh thể tự nhiên)[13]. Nói cách đơn giản, sinh thái học (Ecology, Ökologie) liên quan đến sự chiếu cố và hiến thân đối với quan điểm tự nhiên mới, liên quan đến sự tồn tại của con người đối với tính chỉnh thể của tự nhiên, Cho nên, có thể nói sinh thái học ngay từ đầu đã có chiều hướng của tôn giáo.
Trên thế giới, nghiên cứu tôn giáo và sinh thái học là một lĩnh vực mới xuất hiện trong khoảng hai thập niên qua. Tiêu biểu là hai nhà khoa học Mary Evelyn Tucker và John A. Grim sáng lập Diễn đàn Tôn giáo và sinh thái học nhằm đi đến nỗ lực bảo vệ môi trường sinh thái. Theo hai người này: “ Sinh thái học tôn giáo là những cách thức định hướng hoặc tìm cơ sở cho những thực hành cụ thể mà nhờ đó con người dung dưỡng và biến đổi bản thân, cộng đồng trong một bối cảnh vũ trụ riêng biệt vốn rõ ràng đánh giá cao giá trị của tự nhiên”[14].
Chúng tôi cho rằng: Tôn giáo luôn có mối quan hệ với sinh thái, ngay chính từ khi nó ra đời. Các thực hành tôn giáo truyền thống luôn quan tâm đến sự hiện hữu của môi sinh, gắn kết và hài hòa để thăng hoa các giá trị tâm linh. Vì vậy, trong giáo lý các tôn giáo lớn trên thế giới đều phản ánh đặc điểm môi trường sinh thái nơi mà tôn giáo ra đời và hoạt động. Ngoài ra, để hiểu rõ mối quan hệ giữa tôn giáo và sinh thái, chúng ta cần khám phá những đóng góp của tôn giáo với việc bảo vệ môi trường sinh thái trên lĩnh vực nhận thức lẫn hành động cụ thể. Tuy vậy, tôn giáo và sinh thái học vẫn là lĩnh vực đang được phát triển. Nó khởi đầu với nhiều khái niệm vay mượn từ các lĩnh vực khác, những đã bắt đầu xây dựng những khái niệm và cách tiếp cận cho riêng mình[15].
Trong quan điểm của Tỳ Kheo Buddhadasa, “Toàn thể vũ trụ là một sự hiệp tác. Mặt trời, mặt trăng, và những vì sao chung sống với nhau như một sự hiệp tác. Nó cũng đúng cho con người, động vật, thực vật, và trái đất. Khi chúng ta nhận thức rằng thế giới là một tổ chức kinh dinh hiệp tác phụ thuộc hổ tương…thế thì chúng ta có thể xây dựng một môi trường huy hoàng cao quý. Một Phật tử phương Tây, quán sát rằng thế giới quan Phật Giáo hay Giáo Pháp không chỉ liên hệ đến những lời dạy của Đức Phật mà cũng liên hệ đến mọi thứ trong thiên nhiên, biểu thị đặc điểm của Phật Giáo như một nền sinh thái học tôn giáo.
Lời kêu gọi sự tham gia của tôn giáo bắt đầu với các bài tiểu luận chính của một nhà khoa học, một chuyên gia chính sách và một nhà đạo đức. Michael McElroy, chủ tịch khoa khoa học trái đất và hành tinh của Đại học Harvard, phác thảo lịch sử tiến hóa của trái đất, do đó cung cấp một bối cảnh toàn diện để hiểu tác động hiện tại của con người đối với sự thay đổi khí hậu toàn cầu. Như McElroy quan sát, trong khi quá trình tiến hóa của trái đất đã xảy ra trong khoảng 4,6 tỷ năm, Homo sapiens sapiens chỉ xuất hiện khoảng 150.000 năm trước. Hơn nữa, trong vài trăm năm trước của cuộc cách mạng công nghiệp, con người đã thay đổi hoàn toàn bản chất của hành tinh, làm ấm khí hậu, làm cạn kiệt tài nguyên, làm ô nhiễm đất, nước và không khí. Ông trích dẫn nhà sử học văn hóa Thomas Berry và quan điểm của ông về câu chuyện tiến hóa về sự xuất hiện của cuộc sống khi cung cấp cho kinh nghiệm mặc khải chính của chúng ta về thiêng liêng. Tổ chức McElroy quan sát thấy rằng để thay đổi môi trường toàn cầu một cách không thể đảo ngược mà không quan tâm đến hậu quả đối với các thế hệ hiện tại hoặc tương lai tạo ra một thách thức cơ bản cho các nguyên tắc đạo đức của các tôn giáo trên thế giới. Chuyên gia chính sách công Donald Brown xây dựng thêm về bản chất của biến đổi khí hậu đương đại và tác động của con người đối với quá trình này. Ông lặp lại lời kêu gọi của McElroy về sự tham gia đạo đức của các tôn giáo trên thế giới trong việc giảm thiểu các nguyên nhân của con người và các tác động hành tinh của biến đổi khí hậu. Nhà đạo đức môi trường J. Baird Callicott đề xuất một phương pháp để tập hợp câu chuyện khoa học lớn hơn về sự tiến hóa được nêu trong bài tiểu luận của McElroy với sự đa dạng của các tôn giáo trên thế giới.[16]
Theo ông Joanna Macy, một cuộc cách mạng đang tiến hành bởi vì con người đang nhận thức rằng nhu cầu của chúng ta có thể đạt đến mà không tàn phá thế giới này. Chúng ta có kiến thức kỷ thuật, những phương tiện thông tin, và tài nguyên thiên nhiên để gieo trồng đủ thực phẩm, bảo đảm không khí trong lành và nước sạch, và đạt được nhu cầu năng lượng vừa phải. Những thế hệ tương lai, nếu có một thế giới có thể sinh sống cho chúng, chúng sẽ nhìn lại kỷ nguyên chuyển tiếp mà chúng ta đang làm cho một xã hội của sự sống trường cửu. Và chúng có thể gọi một cách sảng khoái rằng đây là thời gian của Sự Chuyển Biến Vĩ Đại. Nó đang diễn ra ngay bây giờ. Nếu chúng ta lưu tâm và phát triển một cách bền vững.
Những thay đổi này sẽ đòi hỏi sự hỗ trợ và cam kết đặc biệt của những người trong cộng đồng tôn giáo. Thật vậy, tài liệu kêu gọi sự hợp tác của các nhà khoa học tự nhiên và xã hội, các nhà lãnh đạo doanh nghiệp và công nghiệp, và cả các nhà lãnh đạo tôn giáo. Nó kết thúc bằng một lời kêu gọi về thái độ và hành vi nhạy cảm với môi trường, mà cộng đồng tôn giáo có thể giúp phát biểu: “Một đạo đức mới được yêu cầu, một thái độ mới đối với việc từ bỏ trách nhiệm chăm sóc bản thân và trái đất. Chúng ta phải nhận ra khả năng hạn chế của trái đất để cung cấp cho chúng ta. Chúng ta phải nhận ra sự mong manh của nó. Chúng ta không còn cho phép nó bị tàn phá. Đạo đức này phải thúc đẩy một phong trào lớn, thuyết phục các nhà lãnh đạo bất đắc dĩ và các chính phủ bất đắc dĩ và chính các dân tộc bất đắc dĩ thực hiện các thay đổi cần thiết.”[17]
- Một số phong trào tôn giáo sinh thái tiêu biểu trên thế giới hiện nay
Trong nỗ lực tìm đến giải pháp tôn giáo cho vấn đề đạo đức môi trường, vào các năm 1996-1998, hàng loạt hội nghị quốc tế về “Các tôn giáo thế giới và Sinh thái” (The Religions of the World and Ecology) đã được Viện đại học Harvard (Mỹ) tổ chức dưới sự tham gia và cộng tác của khoảng 700 học giả, chuyên gia môi trường và lãnh tụ tôn giáo của nhiều quốc gia trên thế giới nhằm tạo ra những hiệu ứng hiệu quả đối với tín đồ của tôn giáo đó.
Các hoạt động về môi trường và bảo tồn của Tăng già miền bắc Thái Lan cũng lan rộng qua việc làm lễ truyền giới cho cây. Việc truyền giới cho cây, được áp dụng từ tu tập Phật giáo truyền thống, là một thực hành phổ biến ở nhiều quốc gia Phật giáo chiếm đa số, để tìm cách làm giảm thiểu nạn phá rừng và thiết lập các khu bảo tồn động vật hoang dã. Cây được truyền giới và bọc trong vải pháp phục cà sa biểu tượng của chư tôn tịnh đức tăng già Phật giáo Nguyên Thủy (Theravada), làm cho chúng trở thành thiêng liêng và do đó bảo vệ chúng khỏi bị tổn hại, phá hủy và đốn hạ[18]..
Ở Campuchia, một phong trào sinh thái hiện nay là rừng của Campuchia được sự ủng hộ của một nhóm các nhà hoạt động đặc biệt. Các nhà sư, người đã đoàn kết các tổ chức như là Rừng cộng đồng cho các nhà sư (MCF) và Mạng lưới các nhà sư độc lập cho công bằng xã hội (IMMSJ) để chiến đấu bảo vệ rừng bằng cách yêu cầu chính phủ có những hành động mạnh mẽ hơn chống lại nạn phá rừng và vận động các nhà hành pháp tạo ra sự bảo vệ mạnh mẽ hơn.[19]
Đầu năm 2019, Các Tạp chí Nghiên cứu Tôn giáo, Thiên nhiên và Văn hóa[20] của trường Đại Học Yale, Hoa Kỳ cũng tìm kiếm đệ trình cho các vấn đề đặc biệt liên quan chủ đề "lồng ghép tôn giáo sinh thái và thiên nhiên".
Vấn đề này được các nhà khoa học sẽ khám phá các mối quan hệ giữa giới tính, thiên nhiên và các khía cạnh tình cảm, tinh thần và tôn giáo của kinh nghiệm của con người.
Hưởng ứng lời kêu gọi của Liên hợp quốc về thực hiện mục tiêu phát triển thiên niên kỷ “Đảm bảo bền vững về môi trường” (mục tiêu thứ 7), thực thi cam kết tại Hội nghị Thượng đỉnh thế giới về môi trường ở Paris (Pháp), cộng đồng Phật giáo thế giới đã cùng chung tay hành động để giải quyết vấn đề biến đổi khí hậu. Tại Việt Nam, Thông điệp Phật đản Phật lịch 2560 của Đức Pháp chủ Giáo hội Phật giáo Việt Nam nhắc đến việc bảo vệ môi trường bền vững, ứng phó với biến đổi khí hậu nhằm cụ thể hóa chương trình hành động đó, cũng là thực hiện Chương trình phối hợp hành động về bảo vệ môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu giai đoạn 2015-2020 giữa Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Bộ Tài nguyên và Môi trường cùng lãnh đạo 14 tổ chức tôn giáo trong nước, trong đó có Giáo hội Phật giáo Việt Nam cùng kí kết thỏa thuận.
Bảo tồn thiên nhiên và sáng tạo - đặc biệt là hệ thực vật, động vật - là một trong những nghĩa vụ quan trọng nhất của người Phật tử. Rừng đóng vai trò rất quan trọng trong Phật giáo vì nó được coi là phương tiện để các nhà sư tu tập, hành thiền[21] và nền tảng của sự sống. Nó cũng có ý nghĩa lớn đối với việc giác ngộ trong tu tập thiền định của Phật giáo. Có nhiều lời dạy của Đức Phật chứng minh rằng Ngài kêu gọi mọi người sử dụng Rừng một cách tiết kiệm và cấm ô nhiễm nước.
Phẩm Phật quốc của Kinh Duy-ma-cật nói: “Nếu Bồ – tát muốn được Tịnh độ, thì nên tịnh hoá tâm ấy; khi tâm ấy đã tịnh, thì cõi Phật liền tịnh”. Phật Quang Sơn vào ngày 4 tháng 3 năm 1992, tổ chức “Pháp hội tịnh hoá môi trường thân tâm tín đồ Phật Quang Sơn”, mục đích chính là muốn mọi người hưởng ứng cuộc vận động bảo vệ môi trường, từ việc tịnh hoá lục căn thân tâm đến việc tịnh hoá thế giới ngoài tâm. Bên cạnh đó, Hội Phật Quang Quốc tế (Buddha’s Light International Assciation/ BLIA) cũng rất tích cực dấn thân vào công việc giáo hoá công ích xã hội, chỉ dẫn bảy điều khuyến cáo, kêu gọi mọi người cùng nhau “tìm tâm trở lại”; đồng thời thông qua nhận thức môi trường và tham giathực tế, tổ chức, tiến hành: trồng cây cứu lấy nguồn nước, bảo vệ động vật hoang dã, cứu trợ thiên taitrao tặng sự ấm áp, phục vụ thân thiện, thành lập đoàn chữa bệnh từ thiện…[22]
Phật giáo Việt Nam đã có nhiều mô hình thành công trong lĩnh vực bảo vệ môi trường sinh thái. Đầu tiên là mô hình trồng rừng của Liên Tông Tịnh Độ Non Bồng. Theo tinh thần nghị quyết kỳ II của TW Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam về việc phát huy tự túc kinh tế nhà chùa và hưởng ứng lời kêu gọi của Ủy Ban Nhân Dân tỉnh Đồng Nai. Hòa Thượng Thích Thiện Phước phát động toàn thể Tăng Ni trong tông môn trồng cây gây rừng, phủ màu xanh cho rừng núi, mỗi người trồng ít nhất là 100 cây tràm, điều, bạch đàn, sao…. Sau 2 năm, mầm xanh đã nhú lên trên mặt rừng khô cằn, hạt ươm ngày nào trở thành những cây con khắp nơi. Nhận thấy hiệu quả ấy, Cục Kiểm Lâm tỉnh Đồng Nai đã tiếp tục giao thêm đất rừng cho Quan Âm Tu Viện quản lý[23].
Đến năm 1984, nhân kỷ niệm ngày sinh Bác Hồ, Ni Trưởng Huệ Giác lần đầu tiên phát động phong trào trồng cây gây rừng. Tham gia buổi lễ có ông Phạm Văn Hy - Bí Thư Tỉnh Ủy Đồng Nai, ông Lê Văn Nà - chủ tịch UBND tỉnh Đồng Nai, ông Lê Hữu Sanh - Giám đốc Sở Nông Lâm Nghiệp thời bấy giờ.
Các Tự Viện Của Liên Tông Tịnh Độ Non Bồng Đang Tham Gia Trồng Và Quản Lý Rừng |
||||
STT |
Cơ Sở Tự Viện Có Hoạt Động - Dự Án Trồng Rừng |
DIỆN TÍCH (Ha) |
PHÂN LOẠI RỪNG |
GHI CHÚ |
1 |
LONG PHƯỚC THỌ - ĐỒNG NAI |
40 |
RỪNG BẢO VỆ |
|
2 |
BỬU HOA NI VIỆN - ĐỒNG NAI |
40 |
RỪNG BẢO VỆ |
|
3 |
TỔ ĐÌNH LINH SƠN I,II- BÀ RỊA – VŨNG TÀU |
256 |
RỪNG BẢO VỆ |
Khai thác kinh tế không đáng kể |
4 |
HƯƠNG LÂM TỊNH VIỆN - LỘC NINH - BÌNH PHƯỚC |
80 |
RỪNG KINH TẾ |
|
5 |
TRÂN LỢI - HÀM THUẬN NAM - BÌNH THUẬN |
261 |
RỪNG BẢO VỆ |
Đất dự án |
6 |
TỊNH THẤT HẢI HỘI - LÂM ĐỒNG |
90 |
RỪNG BẢO VỆ |
Khai thác kinh tế không đáng kể |
7 |
TỊNH THẤT CÔNG ĐỨC HOA - LÂM ĐỒNG |
110 |
RỪNG BẢO VỆ |
Khai thác kinh tế không đáng kể |
8 |
TỊNH THẤT HOA NGHIÊM - LÂM ĐỒNG |
110 |
RỪNG BẢO VỆ |
Khai thác kinh tế không đáng kể |
9 |
TỊNH THẤT DƯỢC SƯ I - LÂM ĐỒNG |
20 |
RỪNG KINH TẾ |
|
10 |
TỊNH THẤT DƯỢC SƯ II - LÂM ĐỒNG |
16 |
RỪNG KINH TẾ |
|
|
TỔNG DIỆN TÍCH THỐNG KÊ Ở CÁC TỰ VIỆN ĐẠI DIỆN ĐANG THAM GIA - CÓ DỰ ÁN TRỒNG RỪNG |
1023 |
|
|
Qua bảng thống kê các tự viện của Liên Tông Tịnh Độ Non Bồng đang tham gia hay trồng và quản lý rừng thì tổng diện tích rừng bảo vệ là 907 Ha chiếm 90% tổng diện tích đất rừng, số liệu này chứng tỏ LTTĐNB hoạt động có hiệu quả trong công tác trồng rừng gần gũi môi trường tự nhiên, thời gian đầu lúc thành lập môn phong đã có chủ trương tự túc kinh tế, nhưng khi sau này khi các cơ sở tự viện đã hình thành ổn định thì hướng mạnh về vấn đề trồng rừng bảo vệ môi trường môi sinh nhiều hơn, không còn đặt nặng vấn đề khai thác hay chú trọng vấn đề trồng rừng vì kinh tế, đôi lúc do những cánh rừng tràm quá già cỗi thì mới chủ động thay đổi cây trồng.
Toàn bộ hệ thống tự viện của Tông phong gồm hơn 170 ngôi chùa, tịnh xá ở khắp Miền Tây cho đến Đông Nam Bộ. Từ năm 1982 đến nay tông phong tiếp nhận khoảng 1025 ha đất hoang trồng rừng theo giao ước tự trồng, tự hưởng dưới sự chỉ đạo, quan tâm trực tiếp của Ni trưởng Huệ Giác - đương kim Tông trưởng. Những tán rừng xanh đã phủ đồi trọc, đem lại sự sống cho các loài động vật. Kế đến, đó là mô hình xử lý rác thải do Câu Lạc bộ Nữ chức sắc Phật giáo tỉnh Hà Nam phát động và thu được kết quả khả quan, được chính quyền ghi nhận thành tích.
vừa qua
Ban Thường trực Ủy ban MTTQ Việt Nam tỉnh Đồng Nai thực hiện chương trình phối hợp với Sở Tài Nguyên - Môi trường và các tổ chức tôn giáo, các cơ sở tín ngưỡng về bảo vệ môi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu (2016-2021), trong đó MTTQ tỉnh đã tổ chức 2 đợt phát động phong trào thả cá bảo vệ môi trường trên lòng hồ Trị An vào ngày 05/6/2018. Theo đó, có trên 100.000 con cá giống các loại, như: cá mè, chép, trôi… đã được thả xuống lòng hồ với tổng trị giá trên 300 triệu đồng.
Vào năm 2018, Ban Trị sự Phật giáo tỉnh Bến Tre tổ chức lễ Phóng sinh vì môi trường được Phật giáo tỉnh kết hợp chặt chẽ cùng với Hội Thủy Sản và địa phương sở tại từ khâu chọn con giống phù hợp với mội trường nước, kiểm tra sức khỏe cá…trước khi phóng sinh vào môi trường sống mới. Qua đó, giúp các loài không làm hại lẫn nhau, gây ảnh hưởng môi trường; đồng thời tuyên truyền đến bà con trong khu vực không đánh bắt trong vòng một tuần từ khi phóng sinh. Điều đó thể hiện đúng tinh thần bình đẳng, từ bi của Phật giáo trong phóng sinh và cân bằng hệ sinh thái.[24]
Gần đây nhất là chương trình do Change[25] và Wild Aid phối hợp thực hiện vừa được phát động tại chùa Vĩnh Nghiêm (TP. HCM) ngày 28-1. Hiện các tượng động vật hoang dã kêu cứu với gương mặt “cầu xin cứu giúp” đặt tại Pháp viện Minh Đăng Quang (Q.2, TP. HCM) từ ngày 30-1 đến 11-2, tu viện Khánh An (TP. HCM) từ 12-2 đến 18-2 và 28-2 đến 3-3 tại chùa Tây Thiên (Vĩnh Phúc) và cuối cùng là quay lại chùa Vĩnh Nghiêm từ ngày 4-3 cho đến ngày kết thúc chiến dịch là 10-3.
Hình ảnh chú Voi và Tê giác cúi đầu đảnh lễ thánh tượng với lời kêu cứu: “Giống loài chúng con đang bị tuyệt chúng xin Bồ Tát hãy từ bi cứu độ”. Trước cảnh tượng thay lời cầu khẩn, ai có lòng nhân không khỏi xúc động. Tạp chí “Philosophical transactions of the Royal Society B - Biological Sciences” dành hẳn một số để đăng tải công trình nghiên cứu về việc có nên hay không thả các loài động vật hoang dã về môi trường sống ban đầu của chúng. Các kết quả nghiên cứu cho thấy, có các loài động vật hoang dã đóng vai trò quan trọng trong việc cân bằng hệ sinh thái trên hành tinh này. Để khôi phục chức năng của các loài động vật hoang dã bị biến mất trong chuỗi tuần hoàn sinh thái, một phương án phục hồi sinh thái được triển khai với tên gọi “tái hoang dã”. Thúc đẩy “tái hoang dã” có thể mở ra nhiều triển vọng tốt đẹp cho môi trường và cảnh quan. Tại châu Âu, động vật có vú lớn không còn chỉ là các đàn thú nữa, chúng dường như là một ứng cử viên cứu tinh lý tưởng của thiên nhiên.[26]
Giáo hội Phật giáo Việt Nam ở các địa phương trên cả nước cũng thường đưa những nội dung trong chương trình phối hợp vào chương trình hoạt động Phật sự hằng năm. Vận động Phật tử tham gia công tác từ thiện nhân đạo chia sẻ nỗi khổ niềm đau và hỗ trợ đồng bào gặp thiên tai, bão lũ, hạn hán,... Hạn chế việc đốt hương, không đốt vàng mã gây ảnh hưởng đến môi trường…
Phải chăng các giải pháp cho các vấn đề môi trường nằm trong sự hồi sinh của giá trị đạo đức tâm linh và niềm tin tôn giáo, chủ đề về môi trường và bảo vệ Trái đất kết hợp những người ủng hộ trong các tôn giáo khác[27], trong cuộc chiến chung để bảo vệ sinh kế của loài người trên khắp các quốc gia, và nó đã được chứng minh là một trụ cột quan trọng trong cuộc tranh luận giữa các tôn giáo. Trong khi không có một tôn giáo nào độc quyền có thể giải quyết triệt để các vấn đề của biến đổi khí hậu, tuy nhiên tiếng nói chung của các tôn giáo có thể góp phần thay đổi thái độ của mọi ngừoi. Khi cột trụ này lan tỏa sẽ truyền cảm hứng thực tế của tôn giáo chính mình đang kêu gọi và khuyến khích hành vi thân thiện thực sự với môi trường.
Ngày nay, những phong trào tôn giáo sinh thái đang lan rộng đến nhiều quốc gia, được sự hưởng ứng của các tôn giáo lớn, thu hút sự quan tâm của cộng đồng xã hội. Đây là tiền đề góp phần cùng với cả nhân loại chung tay bảo vệ môi trường, giữ gìn sự sống cho trái đất trước nạn tàn phá môi trường, tác động của quá trình biến đổi khí hậu đến loài người.
- Đề xuất một số biện pháp thay lời kết:
Chúng ta cần có một số biện pháp thiết thực nhằm giải quyết các vấn đề mà chúng ta đã bàn thảo phía trên như sau:
Thứ nhất, thiết lập sổ tay Tài liệu hướng dẫn này chứa các hướng dẫn thực tế cho từng người đệ tử Phật về cách khắc phục biến đổi khí hậu. Lời khuyên hàng ngày về các vấn đề như tiết kiệm năng lượng khi nấu ăn hoặc các hoạt động sinh hoạt hằng ngày, tái chế và sử dụng phương tiện giao thông công cộng hoặc khuyến khích phổ biến sử dụng xe đạp (vì môi trường và sức khỏe) được kèm theo trích dẫn từ các bài kinh sống gần gũi, bảo vệ môi trường. Tài liệu này giải thích lý do tại sao người Phật tử nên hành động và minh họa rằng bảo vệ môi trường là nhiệm vụ của họ.
Thứ hai là, Internet ngày càng được sử dụng như một phương tiện truyền bá ý tưởng và phương pháp tiếp cận, và để đưa các nhà hoạt động Phật giáo bảo vệ môi trường tiếp xúc với nhau. Ngoài các trang web thông tin, nên Thiết lập nhiều trang thông tin cộng đồng như: Facebook, Viber, Twitter và các nhóm được điều hành, sử dụng bởi những người không phân biệt tôn giáo nhưng cùng ý tưởng giảm thiểu các hoạt động thay đổi hệ sinh thái và biến đổi môi trường. Các trang web và nhóm này được sử dụng để thảo luận về các chủ đề môi trường trên cơ sở các bài viết, video thân thiện môi trường và các liên kết.
Ba là, Chúng ta hoạch định chiến lược, tổ chức trồng rừng cách hệ thống gắn liền với cơ sở tự viện, khi có sự cố xảy ra thì xe cứu hỏa hay các phương tiện dễ dàng tiếp cận. Hoạch định việc khai thác và trồng cây như thế nào là tối ưu hóa, chủ trương trồng rừng theo vùng khí hậu, thổ nhưỡng để phát triển các khu rừng tốt nhất gắn liền với các cơ sở tự viện, đại tùng lâm vừa góp phần tạo điều kiện thuận lợi, môi trường sống tốt cho các loài sinh vật về trú ngụ, sinh sống. Tạo nên cảnh quan đẹp, môi trường sống xanh hòa hợp với tự nhiên, môi trường tu tập gần gũi với thiên nhiên. Góp phần phổ biến và tuyên truyền cho mọi người biết về việc bảo vệ môi trường môi sinh giảm việc săn bắt sát sinh[28], chặt phá rừng….
Thứ tư, Tiếp nối lời kêu gọi của Giáo hội Phật giáo Việt Nam, các Phật tử nên sử dụng tiền đốt giấy tiền vàng mã, tiền “cúng sao giải hạn”… đóng góp vào quỹ từ thiện hay trồng cây xanh để tích cực chuyển nghiệp cho chính mình và người thân; kêu gọi xây dựng một lối sống thân thiện với môi trường ngay trong cộng đồng dân cư, “xanh , sạch, đẹp” từ môi trường “Tâm” cho đến môi trường sống bên ngoài cộng đồng xã hội bằng các hành động thiết thực như các trang truyền thông đã đưa tin như người nước ngoài nhặt rác ở Cống rãnh Tp. Hồ Chí Minh, Hồ Gươm, các Bãi biển trong khi Phật tử chúng ta chưa có những hình ảnh đẹp để truyền thông thiết thực (một nhóm hội Phật tử áo lam tại chùa…trong chiến dịch bảo vệ môi trường, nhặt rác tại sân vận động…, các GĐPT).
Thứ năm, Trong nỗ lực giải quyết các nhu cầu cân bằng hệ sinh thái của cộng đồng, chúng ta nên nghiên cứu thực hiện kêu gọi, thiết kế để thu hút một số nhóm đối tác, cộng tác viên và người sử dụng tri thức đa dạng. Các khu vườn hay các mảng rừng sinh thái lớn đã được thành lập với sự hỗ trợ của cộng đồng Bản địa địa phương (ví dụ như Chùa Tam Chúc nơi tổ chức lễ Vesak tầm vóc thế giới lần thứ 3, quần thể kiến trúc gắn với hệ sinh thái) để chúng ta có những ngôi tự viện lớn, vừa xứng tầm vừa thân thiện môi trường, tạo ra một tầng lớp ý thức hệ rõ ràng trong việc tu tập gắn liền với môi trường tự nhiên - để giải quyết các rào cản tiếp cận và kiến thức khám phá giáo dục và thực tiễn đổi mới trong đời sống tự viện.
Thứ sáu, Để tồn tại trong một môi trường nhất định, con người phải điều chỉnh những gì họ lấy từ môi trường đó thành những gì có thể mang lại cho họ sản lượng bền vững (chúng ta nên hướng tới việc chỉ tạo ra những sản phẩm thực sự cần thiết cho đời sống). Thực tế, điều này có nghĩa là con người sớm phải học cách bảo tồn ngay từ khi còn nhỏ. Phần lớn phụ thuộc vào những gì có sẵn hơn là vào những gì họ có thể chế tạo, chúng ta đã tham gia vào một quan hệ đối tác với môi trường. Và với sự phát triển ngày càng tăng của giáo dục Phật giáo lẫn giáo dục quốc dân hiện nay, chúng ta có thể thay đổi cách các thế hệ sắp tới hình dung ra môi trường của chúng ta và định hình tương lai cần phát triển bền vững như thế nào mở ra cho các thế hệ.
Tiếng nói đạo đức của một tôn giáo có thể sẽ không được những những người lãnh đạo có trách nhiệm lắng nghe, nhưng tiếng nói ấy có thể lay chuyển phần nào tâm thức của những tín đồ theo tôn giáo đó. Một giải pháp của tôn giáo cho một vấn đề xã hội có thể sẽ không được chú ý đến, nhưng giáo dục tín đồ sống có đạo đức là trách nhiệm của những người lãnh đạo tôn giáo. Bắt đầu được khởi đi từ việc thay đổi nhận thức của mỗi cá nhân, bắt đầu từ việc giảm thiểu đi tham, sân, si, xã hội sẽ dần thay đổi theo chiều hướng tốt đẹp hơn khi tâm thức của mỗi cá nhân thay đổi theo chiều hướng tích cực hơn. Theo cách nhìn của Phật giáo, sẽ không bao giờ có một xã hội tốt đẹp khi ở đó cộng tồn những cá thể chất chứa quá nhiều tham, sân, si - gốc rễ của những hành vi bất thiện có những chiều kích xã hội lớn lao.[29]
Để quán triệt và hành động thiết thực những biện pháp trên, chúng ta cần phối hợp với các ban ngành, Viện của Giáo hội, các cơ quan khoa học tổ chức tọa đàm, hội thảo về Phật giáo với bảo vệ môi trường sinh thái, thảo luận sâu về các mô hình thành công bảo vệ môi trường của Phật giáo thế giới cũng như Việt Nam để đúc kết kinh nghiệm và làm cơ sở cho việc tuyên truyền, các hành động Phật giáo bảo vệ môi trường sinh thái điển hình qua sách báo, phim ảnh,…. Đó là những tấm gương, hành động cao đẹp để cộng đồng xã hội nhìn nhận và học tập.
Điều mà chúng ta luôn hy vọng và cầu nguyện cho sự thành công trong những hội nghị chung cho các vùng lãnh thổ, tôn giáo trên toàn thế giới là chính chúng ta tin tưởng vào tinh thần từ bi và trí tuệ của chúng ta, nó sẽ sáng suốt giải quyết và hoàn tất mọi vấn đề nghiêm trọng, ai ai cũng có ý thức và trách nhiệm chung trong việc bảo vệ môi trường, chúng ta sẽ sống trong một thế giới hòa bình, trong niềm tin yêu thương và hợp tác[30].
ĐĐ. ThS. Thích Thiện Huy
TÀI LIỆU THAM KHẢO
- Ủy ban Môi Trường và Phát Triển – Liên Hiệp Quốc, (1987), Tương lai của chúng ta (Our Common Future).
- Đạt Lai Lạt Ma thứ 14 (1992), Trách nhiệm chung về việc bảo vệ môi trường trong hành tinh của chúng ta, Hội Nghị Thượng đỉnh về việc bảo vệ môi trường và phát triển, do Liên Hợp Quốc tổ chức tại Riode Jeneiro, Brazin.
- Hoàng Văn Chung-Đỗ Lan Hiền (2017), Giới thiệu về Tôn giáo và sinh thái học, Tạp chí Nghiên cứu Tôn giáo, số 11 (167)/2017.
- Doubelday, Galilee (2003), The Reenchantment of Nature: The Denial of Religion and the Ecological Crisis, New York.
- Hubertus Mynarek (1986), Ökologische Religion. Ein neues Verständnis der Natur , München.
- http://environment-ecology.com/religion-and-ecology/740-islam-faith-and-climate-change.html
- Trần Phương Lan dịch (2010), Phật Giáo – Sinh Thái Học và Đạo Đức Toàn Cầu. Thư viện hoa sen.
- Stevent C. Rockefeller, Spirit and Nature: Why the Enviroment is a Religious Issue - An Interfaith Dialogue (Stevent C. Rockefeller, Tâm linh và tự nhiên: Tại sao môi trường là một vấn đề tôn giáo - Đối thoại liên tín ngưỡng), Nxb Beacon, Boston, 1992.
- Phật giáo và Sinh thái học (1997), Truyền thống và Sinh thái bản địa (2001), Tất cả được xuất bản bởi Trung tâm Nghiên cứu Tôn giáo Thế giới tại Trường Harvard, Nhà xuất bản Đại học Harvard, 1-800-448-2242.
- "Môi Trường và Phật giáo" trong Bộ Bách Khoa Tự Điển về Sinh Thái, Môi Trường và Ô Nhiễm Môi Trường, tập 3, do M. C. Chitakara chủ bút, nhà xuất bản Aph Publishing Corporation, năm 1998.
- Phật giáo trong thời đại chúng ta (2005), Nxb. Tôn giáo
[1] Cacbon hòa tan trong đại dương đã làm thay đổi tinh chất hóa học của nó, làm tăng độ axit lên 30% kể từ khi bắt đầu Cách mạng Công nghiệp. Độ an toàn của đại dương hiện chủ yếu phụ thuộc vào việc giảm lượng khí thải CO2 trong vài thập kỷ tới, trước khi xảy ra quá trình axit hóa đại dương và mực nước biển thay đổi hoàn toàn.
[2] Khai thác rừng quá mức tại Việt Nam, theo cuốn Phật giáo trong thời đại chúng ta (2005), Nxb. Tôn giáo: “Tại Việt Nam, hằng năm rừng bị mất khoảng 200.000 ha, trong đó khoảng 50.000 ha do khai hoang để trồng trọt”. Rừng mất, kéo theo lớp thảm mục điều hòa dòng chảy bị mất, lũ lụt và những thảm họa do nó gây ra ngày càng gia tăng. Nhìn rộng hơn, “Theo tốc độ phá rừng hiện nay, với 11 triệu ha mỗi năm, đến năm 2040 thế giới sẽ mất đi từ 17% đến 35% loài trong số 10 triệu. Vào năm 2040, hằng ngày sẽ có 20-70 loài bị tuyệt chủng”(sách đã dẫn: 155). Trong Kỷ yếu Hội thảo khoa học Giáo dục Phật giáo: định hướng và phát triển(2012),trang 301: Cùng với nạn phá rừng, tốc độ đô thị hóa và phát triển công nghiệp diễn ra nhanh, làm cho thiên nhiên ở nước ta bị khai thác kiệt quệ. Chỉ tính trong 5 năm (2001-2005), “tổng diện tích đất nông nghiệp cả nước bị thu hồi cho mục đích khác nhau là khoảng 366.400 ha, tức chiếm 3,89% tổng diện tích đất nông nghiệp đang bị sử dụng. Nếu tính bình quân thì mỗi năm trong khoảng thời gian nói trên có tới 73.288 ha đất canh tác nông nghiệp bị thu hồi”, trong đó “đất trồng lúa giảm trong 5 năm là 7,6%”.
[3]Dẫn theo: http://sonoivu.vinhphuc.gov.vn/ct/cms/chuyenmon/Lists/BanTonGiao/View_detail.aspx?ItemID=642, ngày truy cập: 29/01/2019.
[4] Phật Giáo – Sinh Thái Học và Đạo Đức Toàn Cầu (Trần Phương Lan dịch)
Trong khi chúng ta thảo luận các vấn đề trực diện với chúng ta trên thế giới, thì truyền thống Phật giáo phải được xem xét lại là điều tất nhiên. Ta cần xác nhận rằng đạo Phật là một trong các tôn giáo lớn nhất theo con số tín đồ. Địa vị của Phật giáo ớ Á châu đã ổn định. Mãi cho đến thời kỳ cận đại, đó là tôn giáo duy nhất hay truyền thống xã hội duy nhất được tìm thấy trong khắp mọi lãnh vực văn hóa Á châu. Ảnh hưởng của đạo Phật trên tính cách lịch sử và hiện trạng phát triển văn hóa và xã hội ở Á châu, do đó, rất vĩ đại.
[5] Đức Phật luôn luôn tán thán núi rừng, và xem núi rừng là nơi trú ẩn lý tưởng cho những vị Tỳ Kheo hành đạo: “Làng mạc hay rừng núi, Thung lũng hay đồi cao, La hán trú chỗ nào. Đất ấy thật khả ái” và Phật khẳng định: “Khả ái hay núi rừng, Chỗ người phàm không ưa. Vị ly tham ưa thích, Vì không tìm dục lạc”. (Pháp cú 98 – 99) Này các Tỳ-khưu, đây là những gốc cây, đây là những căn nhà trống. Này các Tỳ-khưu, hãy tu Thiền, chớ cóphóng dật, chớ có để về sau phải hối tiếc. Ðây là lời giáo giới của Ta cho các Thầy.(A.iii.88 Dhammavihārīsutta).
Ta không phải làm gì, Trong khu rừng sa-la. Với Ta, rễ đã cắt, Cả khu rừng rậm rạp, Như vậy Ta được thoát, Mọi rừng rú chông gai.Tâm Ta không bị đâm, Một mình sống an lạc, Ðoạn trừ mọi bất mãn, Sống thích thú hoan hỷ. S.i.179 (Navakammikasutta). Các khu rừng đáng ưa thích là nơi dân chúng không ưa thích. Những vị có tham ái đã lìa sẽ thích thú, họ không có sự tầm cầu dục lạc. Dhp.98-99. “Khu đất thật khả ái, Với những vòng tràng hoa. Hoa tên Ka ra ri. Trải rộng ra cùng khắp, Với voi rú khả ý. Đồi núi ấy ta thích. Những hồ nước trong mát, Tuyệt đẹp màu mây xanh. Che tán bởi loại bọ, Tên kẻ chan In da. Những ngọn núi đá ấy, Làm tâm ta thích thú. Giống đồi mấy xanh biếc, Ví tháp đẹp lâu đài, Với vượn hú khả ý. Đồi núi được ẩn sĩ, Làm thành nơi trụ xứ, Vẳng lên tiếng chim công, Đồi núi ấy ta thích….”(Trưởng Lão Tăng Kệ, 252 – 253) Những ai ngày lẫn đêm, Công đức luôn tăng trưởng, Trú pháp, cụ túc giới, Kẻ nào sanh thiên giới?Ai trồng vườn, trồng rừng, Ai dựng xây cầu cống, Ðào giếng, cho nước uống, Những ai cho nhà cửa, Những vị ấy ngày đêm, Công đức luôn tăng trưởng, Trú pháp, cụ túc giới, Những vị ấy sanh Thiên. S.i.33 (Vanaropasutta).
[6]Thánh đệ tử được định nghĩa trong Tạp A-hàm là: “Này các người Già-lam, Đa văn Thánh đệ tử xa lìa việc giết hại, dứt bỏ sự giết hại, dẹp bỏ dao gậy; có tàm, có quý, có tâm từ bi, làm lợi ích cho tất cả, cho đến côn trùng. Vị ấy đối với sự sát sanh, tâm đã trừ sạch”.
[7] M.i.13 Kinh Pháp tự (dhammadāyādasutta)
[8] Tăng Chi III, 229.
[9]Nguồn tài nguyên bị khai thác quá mức, một phần phục vụ cho ngành công nghiệp chăn nuôi: Người ta tính rằng, hiện nay trên thế giới 1/3 ngũ cốc được dùng làm thức ăn trong chăn nuôi cũng như 90% sản lượng đậu nành. Để có được 1kg thịt bò người ta cần 10 kg ngũ cốc làm thức ăn cho chăn nuôi, 1 kg thịt heo cần từ 4 đến 5,5 kg ngũ cốc, 1 kg thịt gia cầm cần 2,1 đến 3 kg ngũ cốc.
Phải sử dụng từ 7 đến 16 kg đậu nành để tạo ra 1 kg thịt do đó người ta đã lãng phí 90% prôtêin, 99% hydratcacbon và 100% chất xơ là những chất cần cho sức khỏe con người. Nếu chỉ trồng rau, quả, ngũ cốc cho người ăn thì 1 hécta đất có thể nuôi 30 người trong khi nếu sử dụng đất để trồng thức ăn cho chăn nuôi để sản xuất ra thịt, trứng, sữa thì 1 hécta chỉ nuôi được từ 5 đến 10 người dân. Gần 30% địa bàn Trái đất không bị đóng băng được sử dụng để chăn nuôi bò hoặc trồng cỏ làm thức ăn cho chúng.
Khi ăn món bít tết bò hay món gà rán, chúng ta đồng thời đã sử dụng lượng nước không nhỏ mà những con vật từng tiêu thụ để tồn tại. GS John Robbin đã tính được, để sản xuất 1kg khoai tây, lúa mỳ, ngô và gạo cần tương ứng 120, 216, 336 và 450 lít nước. Tuy nhiên, để sản xuất được 1kg thịt bò, cần có tới trên 18 ngàn lít nước. Để có một lít sữa bò - cần 1.000 lít nước ngọt. Thực tế ngành chăn nuôi gia súc hiện sử dụng tới 70% dự trữ nước ngọt dành cho con người. Bởi thế nhu cầu tiêu thụ thịt gia tăng, nước ngọt cho nhu cầu sản xuất lẫn sinh hoạt sẽ cạn kiệt. Các quốc gia giàu có, nhưng thiếu nước ngọt như Arab Saudi, Lybia, các nước vùng Vịnh Persic hay CH Nam Phi khẳng định, cần sản xuất thực phẩm tại những quốc gia nghèo hơn, để bảo vệ dự trữ nước ngọt của chính mình.
Vụ tràn dầu ở vịnh Mexico giữa năm 2010 không phải là thảm họa môi trường duy nhất tại vùng lãnh thổ này. Đã từ lâu, 13.000 - 20.000km2 diện tích mặt biển và cửa sông Mississippi đã bị coi là “vùng chết” vì phân động vật, các nguyên tố nito, phân hóa học và những thứ độc hại khác thải ra từ các trang trại chăn nuôi. Các chất ô nhiễm đã lấy hết nguồn oxy của cơ thể sống khác.
Henning Steinfeld, chủ tịch Phân bộ Tài liệu Chăn nuôi và Chính sách của Tổ chức Nông Lương Liên Hiệp Quốc kiêm tác giả kỳ cựu của bản tường trình nói rằng: "Chăn nuôi là một trong những nguồn đóng góp đáng kể nhất gây ra vấn đề môi trường nghiêm trọng hiện nay. Cần có hành động khẩn cấp để cứu vãn tình trạng này." Có nghĩa chăn nuôi là loại hình phá hoại môi trường trầm trọng về nước sạch, về đất đai, về thực phẩm...
[10] Do Liên Hợp Quốc tổ chức tại Riode Jeneiro, Brazin vào ngày 07/ 07/1992
[11] Doubelday, Galilee (2003), The Reenchantment of Nature: The Denial of Religion and the Ecological Crisis, New York.
[12] Dẫn theo: Trần Khuyết Nghi, Phật Giáo Và Môi Trường Tác Giả: Trần Khuyết Nghi. Nguồn: https://thuvienhoasen.org/a18969/phat-giao-va-moi-truong. Ngày truy cập: 02/02/2019.
[13] Hubertus Mynarek (1986), Ökologische Religion. Ein neues Verständnis der Natur , München, p.14.
[14] Dẫn theo: Hoàng Văn Chung-Đỗ Lan Hiền (2017), Giới thiệu về Tôn giáo và sinh thái học, Tạp chí Nghiên cứu Tôn giáo, số 11 (167)/2017, trang 78. Truy cập ngày 02/02/2019.
[15] Hoàng Văn Chung-Đỗ Lan Hiền (2017), Giới thiệu về Tôn giáo và sinh thái học, Tạp chí Nghiên cứu Tôn giáo, số 11 (167)/2017, trang 79.
[16]Dẫn theo: http://environment-ecology.com/religion-and-ecology/734-the-emerging-alliance-of-world-religions-and-ecology.html, truy cập ngày: 02/02/2019.
[17] Cảnh báo của các nhà khoa học thế giới về loài người, tổ chức các nhà khoa học quan tâm, năm 1992.
[18] Dẫn theo: http://phatgiao.org.vn/quoc-te/201808/Tang-si-Phat-giao-Thai-Lan-tich-cuc-bao-ve-moi-truong-31657/, truy cập ngày: 25/01/2019.
[19] Dẫn theo: http://linhsonphatgiao.com/1/9/2018/campuchia-cac-nha-su-chien-dau-de-bao-ve-rung.html. Truy cập ngày: 25/01/2019.
[20] Tạp chí Tôn giáo, Tự nhiên và Văn hóa, được xuất bản hàng quý kể từ năm 2007 bởi nhà xuất bản Equinox , khám phá thông qua khoa học xã hội và tự nhiên các mối quan hệ phức tạp giữa con người, tôn giáo đa dạng của họ và hệ thống sống của trái đất. Xác định tôn giáo rộng rãi để bao gồm các trải nghiệm tình cảm và tâm linh, JSRNC cung cấp một địa điểm để phân tích và tranh luận về những gì tạo nên mối quan hệ phù hợp về mặt đạo đức giữa các loài của chúng ta và các sinh vật khác trong môi trường đa dạng của thế giới. và môi trường chúng ta sinh sống.
[21] Từ thời Đức Phật, các khu rừng, vườn cây có mối quan hệ chặt chẽ tới đời sống người tu sĩ, điển hình về hình ảnh Đức Phật sanh ra dưới cây Vô Ưu, sống khổ hạnh trong rừng, Thành đạo dưới cây Bồ đề và nhập Niết bàn trong rừng cây Sa La… cả đời Ngài và các vị Thánh đệ tử đều sống hài hòa với thiên nhiên.
[22] Đại sư Tinh Vân (2008), Phật giáo và thế tục, in trong bộ sách Phật học giáo khoa thư, NXB: Từ Thư Thượng Hải, trang 47 – 50.
[23] Thích Thiện Huy (2017), Tham luận Công Tác Trồng Rừng Của Liên Tông Tịnh Độ Non Bồng - Một Mô Hình Bảo Vệ Môi Trường Của Phật Giáo Việt Nam Hiện Nay, trong văn kiện đại hội đại biểu Phật giáo toàn quốc lần thứ VIII, Tổ Chức tại Hà Nội.
[24] Ban TTXH GHPGVN tỉnh Bến Tre.
[25] Theo thông tin của Change VN, vào năm 2016, mỗi năm 33.000 con voi bị giết, tê giác, tê tê (con trút), hà mã, gấu trúc, cá voi... đều là những động vật hoang dã đang bị tuyệt chủng. Môi trường sinh thái đảo lộn, đưa đến hạn hán, bảo tố lụt lội, sóng thần, động đất
[26] http://www.nhandan.com.vn/khoahoc/item/38189902-tai-sao-can-tha-dong-vat-hoang-da-ve-moi-truong-song-ban-dau.html (Theo: www.nouvelobs.com), Truy cập ngày: 20/20/2019.
[27] Ở đây chúng ta chú trọng đến các phong trào bảo vệ môi trường sinh thái của Phật giáo nhằm kỷ niệm các hoạt động Phật giáo nhân ngày Đại lễ Vesak.
[28] Đức Phật xác nhận không sát sanh là bố thí không sợ hãi, bố thí không hận thù, bố thí không làm hại: "Vị thánh đệ tử từ bỏ sát sanh, đem không sợ hãi cho vô lượng chúng sinh, đem không hận thù cho vô lượng chúng sinh, đem không làm hại cho vô lượng chúng sinh". (Tăng Chi III, 229) Ngài tuyên bố rất rõ, Ngài không chấp nhận vì Ngài hay vì đệ tử của Ngài mà giết hại các chúng sinh để cúng dường đồ ăn.
[29] Padmasiri de Silva, 2005, tr.4
[30] Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 14 của Phật Giáo Tây Tạng tại Hội Nghị Thượng đỉnh về việc bảo vệ môi trường và phát triển, do Liên Hợp Quốc tổ chức tại Riode Jeneiro, Brazin vào ngày 07/ 07/1992